Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Ý thức ăn chay trong đại chúng và lý giải Phật Pháp

04 Tháng Chín 201100:00(Xem: 10092)
Ý thức ăn chay trong đại chúng và lý giải Phật Pháp

Món chay ngày xưa rất đạm bạc của người tu, không cầu kỳ, không đòi hỏi những cao sang thế tục mưu cầu. Người thọ trai chỉ mong đủ để độ nhựt hành Đạo, họ khiêm tốn đến nỗi nếu đem ra so sánh thì ngày nay quá xa lìa với Đạo. Tuy nhiên nói đến ẨM THỰC CHAY dù có cầu kỳ, dù có thịnh soạn vẫn mang theo sự thanh thoát như cảnh giới của thiền môn có màu, có vàng son. Ẩm thực chay chất chứa tính công bằng cùng các giới, khơi cho mọi người cái vốn bổn thiện và từ tâm.

anchayroi-1.gif

Hưởng ứng thiện chí của Việt Nam bảo vệ toàn vẹn hệ thống môi trường và phát triển toàn cầu của Liên hiệp quốc là suy nghĩ mang tính trách nhiệm của tổ chức các hội UNESCO. Đưa ẩm thực vào chuyên mục góp phần làm sạch môi trường là một nhận thức mới, cần có sự biện giải lý thú cho nhân loại đồng thuận.

Để phong phú hóa đề tài chay ta không loại trừ ý thức đại chúng và lý giải Phật pháp.

Đại chúng định nghĩa chữ chay bằng khoa học phân chất, xác định vật phẩm chay chỉ có từ nguồn thực vật. Tính chất của vật phẩm chay dung nạp bổ sung năng lượng cuộc sống lành mạnh, cân bằng sinh lý nội tạng, không tích thừa những tố chất khó chuyển hóa. Sau nhiều năm nghiên cứu các nhà khoa học đã khẳng định được giá trị dưỡng chất trong thảo mộc là tốt nhất cho con người. Thảo mộc thay thế hoàn toàn các chất hữu cơ trong động vật. Đối với dinh dưỡng thuần túy nhân loại đã sử dụng từ khi có loài người xuất hiện vẫn là cần cho sự sống khi chưa tin cuộc sống có thảo mộc thay thế. Nhưng dinh dưỡng từ động vật dần dà đã tồn tích những mầm mống hủy diệt lớn trong xã hội. Trước hết là bệnh tật dây chuyền từ động vật sang người.

Trong cơ chế sống của động vật lây nhiễm từ hoang dã khi chúng không có đủ ý thức loại bỏ nguyên nhân gây bệnh, con người không kiểm soát được thành phần độc hại vô hình chung gánh lấy hậu quả. Đối với động vật nuôi, nhà chăn nuôi vẫn có cân đối lãi và lỗ, do vậy giá trị thành phẩm là sự chắt lọc giá trị sản phẩm thừa mà con người đã không thể sử dụng.

Môi trường sống của nhân loại không được sạch, nhân tố phá hoại cuộc sống, nhân tố đầu tiên cho một môi trường ô nhiễm. Ý thức chay trong đại chúng đưa con người lìa xa ô nhiễm từ trong thân để không thải sự ô nhiễm đến cộng đồng.

Lý gii Pht pháp trong m thc chay:

Nhà chùa gọi là trai giới. Trai giới thể hiện bản chất thiện căn, hóa giải ác nghiệp hỗ trợ đắc lực cho các bậc chân tu. Lý giải ấy là một trong ngũ giới người tu thọ trì. Nhưng hiểu đúng và đủ giới nầy cần có một nhận thức khoa học, yếu tố tâm linh đóng vai trò mở rộng khai ngộ Phật pháp.

Trước khi đưa lý giải Phật pháp, câu chuyện gặp thiền sư sẽ khơi cho quý thiện hữu một suy diễn trong ý niệm chay.

Ví dụ một câu chuyện có thật. Ngày nọ, một hành giả là sĩ quan hành quân. Chiến trận lắng lại trong yên ổn, hành giả ghé chùa nghỉ chân. Thiền sư trong chù ra chào hỏi. Hành giả hỏi rằng:

- Xin thỉnh thầy, chiến tranh ngày nào sẽ hết?

Thầy đáp:

- Ngày nào vị thấy lòng người yên tĩnh ngày ấy hết chiến tranh

- Mô Phật - Hành giả hỏi tiếp – Xin thỉnh thầy thêm câu nữa. Ăn chay mình sẽ được điều gì ?

Thầy đáp:

- Vị là trí giả, tôi xin nói ít. Con trâu, con bò cả đời chỉ ăn cỏ không biết thịt cá là gì nhưng có ai bảo chúng ăn chay đâu. Phải chăng thọ dung món chay cần phải thấu rõ chữ chay ? 

 

anchayroi-2.gif

Có ba lý giải:

1/ Ăn chay để giải nghiệp sát sanh.

2/ Ăn chay để thân tâm được trong sạch.

3/ Ăn chay để Pháp giới ứng thông.

Ba lý giải, thoạt đầu ta hình dung hoàn toàngiáo lý nhà Phật, dạy đệ tử tu Phật, nhưng phân tích sâu thì đó là khoa học.

Trên thực tế, các động vật hoang dã phần lớn sống trên sự sống sinh vật khác. Những giống ăn thịt thường hung hãn, luôn hăm he khiến xung quanh phải lẫn tránh nanh vuốt rình rập. Những con vật thừa hưởng vẫn có tính tranh đoạt hung dữ. Như vậy trong thịt động vật có những kích thích tố của bạo ngược. Những giận dữ khi phải chịu đau đớn trước khi chết đã chuyển thành độc trong từng tế bào, có bộ phận nhiều có bộ phận ít, ví dụ trong thịt heo phần đầu độc hơn.

anchayroi 4.gif

Con người có sẵn bản chất thánh thiện, biết cảm nhận sự đau đớn của các sanh vật trước khi chết. Chúng ta vô cảm chỉ vì nghề nghiệp hoặcđam mê với cái thích chưa được giải bày, vì thiện tâm chưa có duyên để khởi. Làm người ta cần đứng trên và cao hơn nữa cái nhận thức của cuộc sống hoang dã. Sự bắt đầu của một thế giới hòa bình là thiện tâm. Thiện tâm không chấp nhận máu đổ để chiến thắng nên ăn chay, không giết hại muôn loài là giải nghiệp sát sanh. Sát sanh là bài tập thường ngày của bạo lực. Sát sanh đã đến cho nhân loại chứ không còn hạn chế trong thế giới của loài vật. Thế giớicảnh báo nhưng chỉ là bề mặt của đạo đức còn chiều sâu chưa thực sự hoàn hảo.

Vật phẩm chay giúp loài người xa dần tội ác, xa dần tính hung hãn và huân tập căn cơ thiện lành. Sự vung vãi của cái ác đưa đẩy con người đến chỗ cạn kiệt nhân tính, xã hội trở thành tập thể vô trách nhiệm với tha nhân. Xã hội đã đầy rác rưỡi từ trong tâm hồn. Ăn chay để kéo thân tâm con người trở lại với cân bằng, với trong sạch, sự ô nhiễm bằng ý thức đại chúng được loại bỏ. Sinh lý không xáo trộnbản chất của bình yên, không tật bịnh, không sanh bất hòa từ thân, ý và pháp nội lẫn pháp ngoại. Sự trong sạch đồng nghĩa với thanh tịnh, hệ quả không sanh không diệt, giúp cho tinh thần sáng suốt. Sáng suốttrí huệ, là đuốc soi. Việc làm chân chính, bắt nguồn từ trong suy nghĩ sáng suốt. Pháp đã ứng thông là vậy!

Thấy Đạo trong Đờithậm thâm vi diệu Pháp,

Thấy Đời trong Đạo là Cứu cánh Niết bàn.

anchayroi-3.gif 

Đạo và đời không xa lìa, Cái nhân trong đời tạo cái quả trong đạo, ngược lại cái duyên trong đạo chuyển đổi cái kiếp trong đời. Đạo dẫn con người đi đến nơi an lạc, nhưng an lạc chính ở nơi ta cùng nhau tạo nên. Phát xuất từ trai giới trong nhà Phật hay từ chay tịnh trong nhân thế là những bước đi đầu tiên đến miền an lạc. An lạc là xứ sở của công bằng, trong đó con người sống biết nhìn xung quanh mình, biết nghĩ có kẻ khác sợ ta tạo ra những lo âuphiền nhiễubiết mình là người có lỗi.

Khoa học đã có lý, Phật pháp cũng hữu tình. Còn nơi ta? Xin hãy đồng thuận vậy.

Trn Văn Đường 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 595)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 779)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1100)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1268)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 997)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1341)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 789)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 763)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 807)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 823)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 802)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 790)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 947)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 834)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 988)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 1007)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 929)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 931)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 858)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 1014)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 954)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 897)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 995)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 910)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 850)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 958)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 884)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1143)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 914)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 1017)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1155)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1616)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1164)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1261)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1113)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 977)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 919)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 960)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 804)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1486)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1366)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1330)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1274)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1379)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1334)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1478)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1355)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1208)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1267)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1326)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant