Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Sử Dụng Thần Thông Lợi Bất Cập Hại

03 Tháng Hai 202418:03(Xem: 832)
Sử Dụng Thần Thông Lợi Bất Cập Hại
Sử Dụng Thần Thông Lợi Bất Cập Hại 

Thích Trung  Hữu


kinh hoa nghiem

Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật pháp và cuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn. Một trong những điều đó là việc Ngài khuyên hàng đệ tử không nên sử dụng thần thông trong cuộc sống cũng như trong việc giáo hóa chúng sinh.

Trước đây tôi không hiểu tại sao Đức Phậtlại cấm như vậy, vì tôi thấy rằng thần thông là phương tiện rất hữu hiệu để giúp ích chúng sinh cũng như trong việc giáo hóaThần thông cũng là thước đo về sự tu tập của một người, vì chỉ những người có tu tậpđến mức độ nào đó thì mới đạt được thần thông. Thế nhưng càng ngày tôi lại càng nhận ra những gì Đức Phật dạy là cần thiết, không hề dư thừa. Có thể việc sử dụng thần thông sẽ đem lại một số lợi ích và tác dụngnào đó, nhưng hệ quả tiêu cực của nó thì rất lớn, rất nhiều.

Mục tiêu của tu tập là để giác ngộ và giải thoát. Để đạt mục tiêu cao thượng ấy cần có trí tuệ chứ không phải thần thông. Thật ra, thần thông không khó để đạt được. Trong quá trình tu tập (như tu thiền định), thần thông sẽ sớm xuất hiện trước khi đạt đượcnhững giá trị tâm linh khác. Điều này cũng có nghĩa rằng, khi có thần thông không có nghĩa là hành giả đã chứng ngộ và giải thoát. Người đạt được thần thông vẫn còn vô minhchấp ngãphiền não và khổ đau.

Tại sao phần lớn chúng ta đều thích những khả năng siêu nhiên? Đó là do người ta tò mò, ngưỡng mộ những điều mà bản thân không làm được, nhưng trên tất cả, đó là vì họ muốn cầu những lợi íchthiết thực cho riêng mình. Bản thân người có thần thông (hoặc ra vẻ có thần thông) thì một mặt, họ thích sự ngưỡng mộ của người khác và mặt khác, thông qua sự ngưỡng mộ đó họ sẽ nhận được nhiều danh lợi. Còn những người đến với người có thần thông cũng là để cầu xin được lợi ích vật chất trong đời sống, như cầu hết bệnh, buôn may bán đắt, thăng quan tiến chức…, mấy ai đến với người có thần thông chỉ vì kính trọng đạo hạnhtrí tuệ.

Chính vì thế mà có rất nhiều hiện tượng mê tín dị đoan thường xảy ra. Đặc điểm chung của những hiện tượng này là sự linh thiêngphép mầu, cũng như khả năng ban phát những nhu cầu lợi ích vật chất cho tín đồ và những người đến xin. Nó đánh trúng tâm lý tham lam của con người cho nên được nhiều người theo. Đó chỉ là những trò lừa bịp chứ không phải chân thật. Thế nên Đức Phậtthường quở trách hàng đệ tử sử dụng thần thông, dù là để giúp đời hay giáo hóa, vì Ngài thấy ra những hệ lụy từ thần thôngphép lạ.

Điểm đặc trưng và cao thượng nhất của người tu Phật không phải là thần thông mà là đời sốngthanh thoát, nhẹ nhàng, vượt lên sự ràng buộc của thế giantự tại với tất cả các pháp. Cốt tủy của Phật pháp là chỉ dạy người xa lìa tham sân si để sống một cách chân chínhtăng trưởng phước báu và không đau khổ.

Đối với Đức Phậtthần thông cao nhất chính là giáo hóa thần thông, tức là giáo dục con người hiểu lẽ chánh tà để họ xa lìa việc ác, thực hành việc thiện, đưa đến an lạc trong đời này và đời sauTrái lại, những năng lực siêu nhiên không làm cho người ta được như thế, thậm chí còn có thể làm cho con người tăng thêm lòng tham, chồng chất thêm vô minhngã chấp hoặc dẫn đến hiện tượngcuồng tíntôn sùng cá nhân.

Tiền bạc vật chất thì ai cũng cần. Thông qua lao động chân chínhchúng ta có thể tự nuôi sống bản thân và góp phần cống hiến cho xã hội. Chỉ có những người không chân chính mới nghĩ đến chuyện ban phát hay cầu xin từ những phép mầu. Một người chân chính và cao thượng không dựa trên việc người đó có năng lực siêu nhiên hay không mà chính là cách sống của họ. Dù ai đó có thần thông quảng đại nhưng đối với danh lợi tình tiền vẫn tham đắm thì họ cũng chỉ là một kẻ tầm thường mà thôi.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 766)
Từ “Phật” (Buddha) đã được biết đến và lưu truyền trước khi Đức Phật xuất hiệnẤn Độ.
(Xem: 737)
Đức Phật, Ngài là con người, bằng xương bằng thịt, như bao nhiêu con người khác...nhưng Ngài là một con người giác ngộ, tỉnh thức...
(Xem: 749)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 745)
Trời có lúc nắng lúc mưa, người có lúc may mắn hoặc xui xẻo. Nhưng không có cái gì tự dưng sinh ra hay mất đi, tất cả đều có lý do của do của nó.
(Xem: 648)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 1222)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1392)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 1116)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1452)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 921)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 820)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 923)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 939)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 910)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 937)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 1068)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 890)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 1034)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 1038)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 960)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 986)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 909)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 1068)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 1012)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 936)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 1046)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 970)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 901)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 1004)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 942)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1191)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 971)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 1053)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1220)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1658)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1223)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1299)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1158)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 1020)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 983)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 1012)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 862)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1536)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1411)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1388)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1329)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1425)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1381)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1525)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1387)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant