Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Nhĩ Căn Viên Thông

24 Tháng Mười Một 202319:31(Xem: 1262)
Nhĩ Căn Viên Thông
Nhĩ Căn Viên Thông  

Thích Nguyên Hùng

Bồ Tát Đạo


Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).

Khả năng này không những giúp cho Bồ-tát có thể nghe và hiểu hết tất cả âm thanh của thế gian mà còn cho phép Bồ-tát nghe mà thấy sắc, nghe mà biết mùi, nghe mà biết vị, nghe mà cảm nhận, nghe mà thấu hiểu, tức là lỗ tai có tất cả những chức năng của các giác quan mắt, mũi, lưỡi, thân và ý.

Kinh Thủ lăng nghiêm ghi lại lời trình bày về sự tu tập của Bồ-tát Quán Thế Âm lên Đức Thế Tôn như sau: “Kính bạch Thế Tôn! Con nhớ trong vô số kiếp nhiều như cát sông Hằng về thuở trước có Đức Phật ra đời hiệu là Quán Thế Âm. Ở nơi Đức Phật ấy, con đã phát tâm Bồ-đề. Đức Phậtấy dạy cho con cách vào thiền định bằng phương phápVăn, Tư, Tu.

Con bắt đầu tu tập, trước hết nghe lại chính mình, nghe bên trong, liền được vào dòng; vào dòng rồi không còn tướng nghe. Chỗ vào đã vắng lặng thì hai tướng động và tĩnh rõ ràng không sinh. Cứ như vậy, sự tu tập tăng tiến dần, đến lúc cái nghe và cái được nghe đều vắng lặng. Sự vắng lặng không dừng ở đó, mà tiếp tục tiến đến chỗ cái biết và cái được biết đều không, rồi cái biết về không ấy đi đến chỗ tận cùng viên mãn, cái không và cái được biết là không hoàn toàn vắng bặt.

Ý niệm sinh diệt đã diệt mất hoàn toàn thì cảnh giới tịch diệt hiện ra rõ ràng trước mắt, bỗng nhiên con vượt thoát cả thế gian và xuất thế gianmười phương rực sáng. Ngay đó con đạt được hai điều thù thắng. Một là, trên thì khế hợp với bản giác diệu tâm của mười phương chư Phật. Hai là, dưới thì ứng hợp với hết thảy chúng sinh trong sáu nẻo mười phương, cùng với chúng sinh đồng tâm khát ngưỡng yêu thương.

Bạch Đức Thế Tôn! Do con cúng dường Đức Quán Thế Âm Như Lai, được Ngài trao truyền cho pháp tu ‘văn huân và văn tu như huyễn’; con tu pháp ấy mà chứng Kim cang tam-muội, cùng với chư Phật đồng một sức từ, khiến cho thân con thành tựu được 32 thân ứng hóa vào khắp các quốc độ” (ĐTK/ĐCTT, tập 19, trang 128b15).

Văn huân là hàng ngày nghe pháptụng kinh, nhất là những lời pháp, lời kinh giữa những trang đời. Những trang kinh đời luôn luôn nói lên sự thật vô thường, khổ, không, vô ngã. Phải lắng nghe và thấu hiểu tiếng nói tự thân của sự vật hiện tượng, tức là âm thanh của vũ trụ vạn hữu, của các pháp, đó là văn huân. Văn huân như vậy rồi nghiền ngẫmtư duy và tu tập với tính nghe ấy gọi là văn tu. Văn, Tư, Tu miên mật sẽ giác ngộ được bản chất hư huyễn của cuộc đời. Tức là thấy rõ bản chất của các pháp không có gì là thật cả. Bấy giờ Bồ-tát chứng được Kim cang tam-muội.

Văn huân là hàng ngày nghe pháptụng kinh, nhất là những lời pháp, lời kinh giữa những trang đời. Những trang kinh đời luôn luôn nói lên sự thật vô thường, khổ, không, vô ngã. Phải lắng nghe và thấu hiểu tiếng nói tự thân của sự vật hiện tượng, tức là âm thanh của vũ trụ vạn hữu, của các pháp, đó là văn huân. Văn huân như vậy rồi nghiền ngẫmtư duy và tu tập với tính nghe ấy gọi là văn tu. Văn, Tư, Tu miên mật sẽ giác ngộ được bản chất hư huyễn của cuộc đời.

Diệu lực của Kim cang tam-muội là cùng với chúng sinh trong sáu đường khắp mười phươngba đời đều đồng một lòng khát ngưỡng yêu thương, một thứ tình thương có khả năng chuyển hóa khổ đau và sợ hãi bằng hành động vô tác, gọi là vô duyên từ. Với diệu lực này, Bồ-tát Quán Âm ban chochúng sinh 14 điều vô úy.

1. Quán Âm nhưng không phải quán âm thanh đối tượng bên ngoài, mà quán cái tâm năng quán của chính mình, tức là nghe tiếng nói tự lòng mình. Công phu tu tập này sẽ khiến cho chúng sinhkhổ não khắp mười phương đều được giải thoát (thập phương khổ não chúng sinh, quán kỳ âm thanh tức đắc giải thoát).

2. Quán Âm tức là xoay tri kiến trở lại soi chiếu nội tâm, là lắng nghe tiếng lòng thanh tịnh nhiệm mầu của mình. Công phu soi chiếu này sẽ khiến cho chúng sinh dù vào đống lửa lớn, những ngọn lửa tham đắm, hận thù, si mê… không thể nào đốt cháy được (thiết nhập đại hỏa, hỏa bất năng thiêu).

3. Quán Âm tức là quán cái nghe xoay vào nội tâm, để lắng nghe tiếng nói thanh tịnh của tâm mình. Công phu này sẽ khiến cho chúng sinh dù bị nước lớn cuốn trôi, đó là những dòng nước tham ái, nước lợi danh… cũng không bị những dòng nước ấy nhận chìm (đại thủy sở phiêu, thủy bất năng nịch).

4. Quán Âm tức là diệt hết vọng tưởng, không còn tâm sát hại. Công phu này khiến cho chúng sinhdù phải vào trong các nước ngạ quỷ, cũng không bị chúng quỷ làm hại. Không còn tâm sát hại thì không bao giờ bị sát hại (nhập chư quỷ quốc, quỷ bất năng hại).

5. Quán Âm tức là huân tập cái nghe mà thành tựu tính nghe chân thật; cả sáu căn đều tiêu huyễn vọng mà trở về chân tínhCông phu tu tập này khiến cho chúng sinh lúc sắp phải bị hại, dao gãy từng khúc, binh khí chạm thân dường như chém nước, như gió thổi ánh sáng, tính không dao động(sở chấp đao trượng, tầm đoạn đoạn hoại).

6. Quán Âm tức là huân tập tính nghe tinh thuần, sáng khắp pháp giới, thì những gì đen tối không thể tồn tạiCông phu tu tập này khiến cho chúng sinh, dù các loài ác quỷ như dược-xoa, la-sát, cưu-bàn-trà, tì-xá-già, phú-đơn-na..., nếu có đứng gần cũng không thể nhìn thấy, không thể nhìn bằng con mắt dữ dằn (thị chư ác quỷ, thượng bất năng dĩ ác nhãn nhị chi).

7. Quán Âm tức là hai tính động, tĩnh của âm thanh đều tiêu diệt hoàn toànquán chiếu tính năng nghe xoay ngược vào trong, xa lìa hết các trần cảnh hư vọngCông phu tu tập này khiến cho chúng sinh, tất cả những thứ gông cùm xiềng xích đều không dính đến thân thể (nữu giới già tỏa kiểm hệ kỳ thân, giai tất đoạn hoại).

8. Quán Âm tức là dứt tuyệt âm thanh, tròn vẹn tính nghe, từ lực phát sinh cùng khắp. Công phu tu tập này khiến cho chúng sinh, dù đi qua con đường nguy hiểm, cũng không bị giặc cướp làm hại (kinh quá hiểm lộ, tặc bất năng kiếp).

9. Quán Âm tức là huân tu tính nghe thanh tịnhxa lìa các trần tướng, sắc dục không thể quyến rũCông phu tu tập này khiến cho các chúng sinh nặng nghiệp tham ái rời xa tham dục (đa dâm chúng sinhviễn ly tham dục).

10. Quán Âm tức là lưu lại thuần một thật tướng của âm thanh, không còn mảy may đối tượng thanh trầncăn cảnh viên dung, không có năng sở đối đãiCông phu tu tập này khiến cho các chúng sinh nhiều nóng giận dứt bỏ sân hận (oán hận chúng sinh, ly chư sân khuể).

Như vậy, chỉ bằng phương pháp lắng nghe, mà hơn hết là lắng nghe tiếng nói của nội tâm, tiếng nói của lòng mình mà thành tựu Kim cang tam-muội, từ đó có diệu lựcnghe và hiểu hết mọi âm thanh của các giống loài, nhất là âm thanh kêu cầu cứukhổ của mọi loài chúng sinh, để đem đến cho họ 14 điều vô úy. Đó là nhân và hạnh nhĩ căn viên thông của Bồ-tát Quán Thế Âm.

11. Quán Âm tức là tiêu trừ vọng trần đối tượng, xoay cái nghe về tự tính sáng suốt, từ ngoài pháp giới đến trong thân tâm trong sáng như ngọc lưu ly, rỗng suốt không có gì chướng ngạiCông phutu tập này khiến cho tất cả chúng sinh ngu ngốc đần độn vĩnh viễn xa lìa si mê tăm tối (hôn độn tính chướng, chư a-để-ca, vĩnh ly si ám).

12. Quán Âm tức là tiêu trừ hết huyễn hình tứ đại, xoay tính nghe trở về nơi tịch diệt bất động, hòa nhập vào thế gian mà không hủy hoại thế giancúng dường chư Phật nhiều như vi trần trong khắp mười phương, làm Pháp vương tử ở bên cạnh mỗi mỗi Đức PhậtCông phu tu tập này khiến cho tất cả những kẻ không có con trong khắp pháp giới, muốn cầu có con trai thì sinh được con trai phúc đức trí tuệ (dục cầu nam giả, đản sinh phước đức trí tuệ chi nam).

13. Quán Âm tức là sáu căn viên thông, chiếu sáng không hai, bao trùm mười phương pháp giới, thành chiếc kính lớn tròn đầy, thành không Như Lai tạng, vâng lãnh các pháp môn bí mật của chư Phật nhiều như vi trần trong khắp mười phương, lãnh nhận không thiếu sótCông phu tu tập này khiến cho những kẻ không có con trong thế gian, muốn cầu có con gái, thì sinh được con gái xinh đẹpđoan chínhphúc đức, dịu hiền, mọi người yêu kính (dục cầu nữ giả, đản sinh đoan chínhphước đức nhu thuận, chúng nhân ái kính hữu tướng chi nữ).

14. Quán Âm tức là trong ba ngàn đại thiên thế giới này có trăm ức mặt trời mặt trăng, các vị Pháp vương tử hiện trú ở thế gian nhiều đến 62 lần số cát sông Hằng, đều tu Phật pháp, làm mô phạmgiáo hóa và tùy thuận chúng sinhtrí tuệ và phương tiện mỗi ngài mỗi khác.

Vậy mà, do đã được nhĩ căn viên thông, phát ra diệu tính của nhĩ căn, sau đó thì thân tâm trở nên vi diệu, bao trùm cùng khắp pháp giới, cho nên có thể khiến cho người chấp trì danh hiệu của Bồ-tát, so với người chấp trì danh hiệu của 62 lần số cát sông Hằng các vị Pháp vương tử nói trên, phước đức của hai người này ngang bằng nhau, không có gì sai khác (phước đức chính đẳng vô dị).

Đó gọi là 14 sức vô úy thí, đem phúc lành đến khắp chúng sinh (ĐTK/ĐCTT, tập 19, trang 129a25).

Như vậy, chỉ bằng phương pháp lắng nghe, mà hơn hết là lắng nghe tiếng nói của nội tâm, tiếng nói của lòng mình mà thành tựu Kim cang tam-muội, từ đó có diệu lực nghe và hiểu hết mọi âm thanhcủa các giống loài, nhất là âm thanh kêu cầu cứu khổ của mọi loài chúng sinh, để đem đến cho họ 14 điều vô úy. Đó là nhân và hạnh nhĩ căn viên thông của Bồ-tát Quán Thế Âm.

Rõ ràngQuán Thế Âm là vị Bồ-tát thành danh hay mang tên gọi từ chính pháp môn mà Ngài tu tậppháp môn lắng nghe, tư duy và hành động; bắt đầu từ sự lắng nghe tiếng nói của lòng mình mà dần hiểu hết tiếng nói hay tâm tư, nguyện vọng của muôn loài chúng sinh, để rồi đi đến hành động thiết thực là ban rải tình thương không điều kiện. Một khi biết lắng tai nghe và nghe được với tâm tịch tĩnh trong sáng thì sẽ hiểu biết trọn vẹnviên thông. Ấy là lúc Bồ-tát dấn thân vào đời bằng tình thương vô bờ, gọi là vô ngại đại bi vậy!

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 707)
Trời có lúc nắng lúc mưa, người có lúc may mắn hoặc xui xẻo. Nhưng không có cái gì tự dưng sinh ra hay mất đi, tất cả đều có lý do của do của nó.
(Xem: 597)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 787)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1110)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1272)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 1003)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1345)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 796)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 769)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 811)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 826)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 805)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 795)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 952)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 839)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 992)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 1008)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 936)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 933)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 861)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 1016)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 962)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 899)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 996)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 913)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 856)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 960)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 889)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1148)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 920)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 1020)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1161)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1621)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1167)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1115)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 980)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 923)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 962)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 807)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1489)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1369)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1331)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1277)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1385)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1335)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1480)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1357)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1208)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1269)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1328)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant