Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Bài Mới Nhất trang Văn Học
Điền Email để nhận bài mới

Quán Chiếu Bát Nhã

17 Tháng Mười 202318:55(Xem: 3899)
Quán Chiếu Bát Nhã

Quán Chiếu Bát Nhã

Nguyễn Thế Đăng

Bồ Tát Đạo

 

Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhãtánh Không thường được xếp thành ba phạm trùVăn tự Bát nhãQuán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhãVăn tự Bát nhã là các kinh luận, giảng về tánh KhôngQuán chiếu Bát nhã là sự thực hành quán chiếu để thấy biết tánh Không. Và Thật tướng Bát nhã là Thật tướng của tánh Không, cũng tức là Thật tướng của tất cả mọi sự.

Trong bài này chỉ nói đến quán chiếu Bát nhã, và chỉ nói đến hai đề mục quán chiếu, trong rất nhiều đề mục quán chiếu của hệ thống Bát nhã, vì chỉ riêng quán chiếu cái Không thì đã có mười tám cái Không. Hai đề mục ấy cái thứ nhất nghiêng về Không tông của ngài Long Thọ và cái thứ hai nghiêng về Duy thức tông của ngài Thế Thân.

Những câu kinh được trích dẫn là từ Ma ha Bát nhã Ba la mật đa bản dịch của Tam tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập

 

1/ Quán chiếu vô tự tánh

Lại Này, ngài Xá Lợi Phất! Vì các pháp do hòa hiệp mà sanh nên không có tự tánh

Những gì do hòa hiệp mà sanh nên không có tự tánh? 

Sắc hòa hiệp sanh nên không có tự tánh. Thọ, tưởng, hành, thức hòa hiệp sanh nên không có tự tánh. Nhãn cho đến ý xúc làm nhân duyên sanh thọ là hòa hiệp sanh nên không có tự tánh

Bố thí ba la mật cho đến Bát nhã ba la mật hòa hiệp sanh nên không có tự tánhBốn niệm xứ cho đến mười tám pháp Bất cọng hòa hiệp sanh nên không có tự tánh”.

(Phẩm Thập Vô, thứ 25)

Năm ấm sắc thọ tưởng hành thức tạo thành mỗi cá nhân cho đến tất cả những người khác, và tất cả những kinh nghiệm của con người tạo thành thế giới như nó thấy biết, đều không có tự tánh.

Vì sao không có tự tánh? “Vì tất cả các pháp do hòa hiệp mà sanh nên không có tự tánh”. Hòa hiệp mà sanh nghĩa là do nhiều nhân duyên hòa hiệp một cách tạm thời mà có hiện hữu. Một nguyên nhân (nhân), một điều kiện (duyên) mà thiếu thì hiện hữu ấy biến đổi thành cái khác hoặc sụp đổ, tan rã.

Mọi sự vật, mọi con người, mọi hiện tượng đều do nhiều nhân duyên tạm thời hợp lại mà thành nên không có lõi cứng, rỗng không. Khi quán chiếu kỹ lưỡng, sẽ thấy chúng là không có lõi cứng, rỗng không, không có hiện hữu nội tại, không có tự tánh. Đây là một nghĩa của tánh Không.

 

Quán chiếu vô tự tánh của các hiện hữu giúp chúng ta buông bỏ sự bám nắm vào chúng. Càng bỏ bớt sự bám nắm vào các sự vật, càng bớt các phiền não, các độc tham, sân, si, mạn, nghi…, con người chúng ta càng không bị trói buộc, càng tự do, tức là càng giải thoát. Chính sự bám nắm, dính chặt này của tâm thức đã tạo ra thế giới hạn hẹp và trói buộc mà chúng ta gọi là sanh tử.

Những sự vật sở dĩ che chướng chúng ta để tạo thành phiền não chướng và sở tri chướng của riêng chúng ta là bởi vì sự bám nắm chặt chẽ của chúng ta vào chúng. Sự bám nắm chặt chẽ này là do chúng ta tin vào sự có tự tánh của chúng. Thế nên khi quán chiếu vô tự tánh, những che chướng, những bám nắm sẽ dần dần rơi rụng, để thật tướng tánh Không hiển lộ.

 

Những câu đầu tiên của phẩm Thập Vô trích ở trên nói rằng:

Ngài Tu Bồ Đề thưa với Phật: Bạch Thế Tôn! Đại Bồ tát biên tế trước chẳng thể đắc, biên tế sau chẳng thể đắc, biên tế giữa chẳng thể đắc. 

Vì sắc, thọ, tưởng, hành, thức vô biên nên đại Bồ tát cũng vô biên

Sắc, thọ, tưởng, hành, thức là đại Bồ tát, đều chẳng thể đắc”.

Khi tánh Không hiển lộ, đó là thật tướng bát nhã, đó là trí huệ thấy biết trực tiếp tánh KhôngTrí huệthấy tánh Không là trí huệ thấy “sắc, thọ, tưởng, hành, thức vô biên, chẳng thể đắc”. Khi “sắc… là vô biên, chẳng thể đắc, nên Bồ tát cũng vô biên, chẳng thể đắc”. Bồ tát vô biên thì trí huệ của Bồ tátvô biênTrí huệ vô biên ấy là trí huệ thấu suốt tánh Khôngtrí huệ Bát nhã.

Tóm lại, thấy sắc, thọ,… là vô biên, đây là trí huệ Bát nhã.

 

2/ Quán chiếu như huyễn, như mộng. 

Phẩm Huyễn học, thứ 11, bắt đầu như thế này:

Ngài Tu Bồ Đề thưa: Bạch Thế Tôn! Nếu có người hỏi rằng: Người huyễn học Bát nhã ba la mậtcho đến Bố thí ba la mật, người huyễn học bốn Niệm xứ cho đến mười tám pháp Bất cọng có được Nhất thiết chủng trí chăng? Thì con phải giải đáp thế nào? 

Phật dạy: Này Tu Bồ Đề! Phật hỏi lại ông, tùy ý ông đáp lời Phật. 

Này Tu Bồ Đề! Sắc với huyễn có khác nhau chăng? Thọ, tưởng, hành, thức với huyễn có khác nhau chăng? 

- Bạch Thế Tôn, không khác. 

- Này Tu Bồ Đề! Nhãn đến ý, sắc đến pháp, nhãn giới đến ý thức giới và huyễn có khác nhau chăng? 

- Bạch Thế Tôn, không khác. 

- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ tát học Bát nhã ba la mật như thế sẽ được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, như người huyễn học. Vì sao thế? Nên biết rằng năm ấm tức là người huyễn, người huyễn tức là năm ấm

- Này Tu Bồ Đề! Năm ấm ấy học Bát nhã ba la mật được Nhất thiết chủng trí chăng? 

- Bạch Thế Tôn, không vậy. Vì năm ấm này tánh vô sở hữu (không ở đâu cả). Tánh vô sở hữu cũng là chẳng thể đắc. 

- Này Tu Bồ Đề! Năm ấm như mộng, như ảo ảnh, như tiếng vang, như sóng nắng, như biến hóa…

Tại sao là như huyễn như mộng? Vì mọi sự đều vô tự tánh, rỗng không nhưng được các giác quanvà ý thức kinh nghiệm sai lầm là có tự tánhhoàn toàn có thật. Như một đám mây, một bọt nước, một cầu vồng, có thấy nhưng không thể bám nắm, cất giữ, để dành.

Năm ấm sắc, thọ, tưởng, hành, thức hợp tạo thành con người và thế giới theo kinh nghiệm của năm ấm con người đều như huyễn, như mộng. Năm ấm như huyễn hợp tạo thành người huyễn, năm ấm như mộng hợp tạo thành người trong mộng. Người huyễn thì kinh nghiệm một thế giới như huyễn và người trong mộng kinh nghiệm một thế giới trong mộng.

 

Quán chiếu Bát nhã là quán chiếu thân tâmthế giới và những người khác đều là những trải nghiệm trong một giấc mộng, không có thật, như huyễn. Với sự quán chiếu này người ta thoát khỏi tham, sân, si, giành giật, chiến đấu vì những điều không thật, những ảo tưởng của chính mình. Sở dĩ con người lọt vào một thế giới sanh tử khổ đau vì không biết thế giới ấy do các giác quan và ý thức hòa hợp tạo ra, không có tự tánhnhư huyễn, như mộng.

 

Ngài Tu Bồ Đề nói: Này các vị! Như nhà huyễn thuật giỏi, ở giữa ngã tư đường hóa làm Phật và bốn bộ chúng rồi thuyết pháp. Ý các vị nghĩ sao, trong đó có người nói, có người nghe, có người hiểu chăng? 

Các thiên tử nói: Bạch đại đức, không có. 

Ngài Tu Bồ Đề nói: Này các vị! Tất cả pháp như huyễn ảo, trong đó không có người nói, người nghe, cũng không có người hiểu”.

Với sự quán chiếu như huyễn như mộng, sự phân biệt chia cách muôn đời giữa mình và người, mình và thế giới bị xóa tan để cho bản tánh của mọi sự là tánh Không hiển lộ. Khi ấy ánh sáng tríhuệ tánh Không thấu thoát qua mọi hiện tướng, biến chúng thành như huyễn như mộng và người ta không còn bị ràng buộc vào thế giới này, mặc dù vẫn sống trong thế giới ấy để giúp đỡ những người khác thoát khỏi ảo tưởng huyễn mộng của họ.

Một thí dụ thường thấy trong kinh, luận là bóng và gương. Bóng là các “hiện tướng”, các “ảnh hiện”. Gương là bản tánh Không của các hiện tướng, các ảnh hiện. Với người bình thường chưa học pháp thì không biết các hiện tướng, các ảnh hiện là vô tự tánh và họ chạy theo chúng. Khi quán chiếu bát nhã, tức là quán chiếu vô tự tánhnhư huyễn như mộng,…dần dần gương sáng hiện raGương sáng càng hiện thì tướng, ảnh càng trở lại bản chất thật của chúng là không thể nắm bắt, không thể đắc, không có ở đâu cả (vô sở hữu). Khi ấy ánh sáng của gương thấu thoát qua mọi bóng trong gương bấy giờ chúng trở thành không có tự tánh, không thể đắc, như huyễn như mộng. 

Kinh nói quán chiếu Bát nhã như trên, đó là “năng lực phương tiện của Bát nhã ba la mật”. Phương tiện thiện xảo này giúp cho Bồ tát khỏi rớt vào sanh tửđồng thời không giải thoát cho riêng mình để ở trong thế giới của chúng sanh mà giúp đỡ, cứu thoát chúng sanh.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2391)
Đợi cha mẹ già qua đời rồi mới báo hiếu làm đàn tràng cầu siêu thiệt to, mua đất nghĩa trang thiệt rộng, xây mồ xây mả thiệt đẹ
(Xem: 2509)
Phật giáo đề cao giá trị của hạnh buông xả – một trong những đức hạnh căn bản giúp con người thoát khỏi khổ đau, đạt được sự an lạctự do nội tâm.
(Xem: 2944)
Không chỉ riêng với Phật giáo dân gian, hầu hết (và có thể là tất cả) các tôn giáo khác, đều tin rằng có một kiếp sau, hay một đời sau.
(Xem: 2456)
Phật tánhchủ đề của Kinh Đại Bát Niết Bàn và được luận giảng trong Phật tánh luận.
(Xem: 2483)
Phàm làm việc gì muốn được thành công, trước tiên đòi hỏi người ta phải siêng năng.
(Xem: 1562)
Chữ Tánh, Bản tánh, Tự tánh được nói đến trong rất nhiều kinh, luận Đại thừa. Đó cũng chính là mục đích rốt ráo cần tu chứng.
(Xem: 2432)
Trong khi một số vị Pháp sư cố gắng hết sức để quảng bá giáo lý của họ – bằng cách viếng thăm các chùa và tu viện khác nhau trên khắp thế giới
(Xem: 2109)
Hãy quán niệm thật sâu. Một khi có sinh, phải có khổ. Tất cả chúng ta đều phải chịu đựng theo cách đó.
(Xem: 2777)
Khát khao là một cảm xúc tự nhiên của con người, biểu hiện qua mong muốn đạt được điều mà mình cho là quan trọng hoặc cần thiết.
(Xem: 1915)
Từ nguyên thủy, tất cả chúng sanh đều muốn được hạnh phúc, và không muốn đau khổ.
(Xem: 3110)
Vipassana và sathama là hai phương phápthiền nổi bật mang đến những trải nghiệm tâm hồn độc đáo.
(Xem: 2248)
Nguyện là lý tưởng, là mục đích, là định hướng cho cuộc hành trình.
(Xem: 3608)
Một trong những đóng góp to lớn của Hoà thượng Thích Minh Châu là sự nghiệpphiên dịch kinh điển.
(Xem: 2136)
Trong kinh Hoa nghiêm Đức Phật có dạy: “Nhất niệm sân tâm khởi, bách vạn chướng môn khai”
(Xem: 1941)
Chúng ta có cuộc sống khác nhau trên những giai tầng xã hội, cung bậc tình cảm, cảnh giới tâm linh.
(Xem: 2984)
Khi đức Phật thành đạo dưới cội Bồ Đề, ngài đứng trước một lựa chọn trọng đại:
(Xem: 2633)
Ngày xưa, đa phần chùa ở Á Châu được xây dựng trên núi, nên vị Thầy đến đó dựng chùa gọi là Thầy Khai sơn, Trụ trì.
(Xem: 2137)
Sống trong một nền văn hóa dựa trên sợ hãi, điều đó chắc chắn ảnh hưởng đến trạng thái tâm của bạn và những quyết định bạn đưa ra.
(Xem: 3023)
Cho đến trọn đời, các vị A-la-hán dùng mỗi ngày một bữa, không ăn ban đêm, từ bỏ không ăn ban đêm, từ bỏ ăn phi thời.
(Xem: 2922)
Khi nói đến thiền Quán là nói đến Tứ Niệm Xứ. Quán Tứ Niệm Xứthiết lập Chánh niệm trên bốn lãnh vực Thân, Thọ, Tâm, Pháp.
(Xem: 2852)
Muốn chuyển hóa cảm xúc thì chúng ta cần chuyển hóa nhận thức trước, đau khổ đơn thuần cũng chỉ là một trạng thái của tâm.
(Xem: 1985)
Bất cứ dược phẩm nào được tìm ra trong thế giới, dù nhiều và đa dạng, không có thứ nào bằng Pháp (trích từ Milindapanha).
(Xem: 2500)
Trong khi một số vị Pháp sư cố gắng hết sức để quảng bá giáo lý của họ – bằng cách viếng thăm các chùa và tu viện khác nhau
(Xem: 2454)
Từ xưa đến nay, chánh ngữ vẫn là yếu tố cần thiết để khẳng định “tính người” trong mỗi cá nhân,
(Xem: 1855)
Sinh, lão, bệnh và tử: những điều này là bình thường. Sinh là bản chất bình thường của sự vật
(Xem: 2091)
Thay đổi, biến động, dịch chuyển vốn là tính chất thường hằngcủa vạn hữu: có sinh ắt có diệt.
(Xem: 2805)
Trong cuộc sống đời thường, mỗi ngày chúng ta phải quyết định hàng trăm, hàng ngàn lần.
(Xem: 1612)
“Thử tại tâm trung xuất hình ư ngoại” Đó là câu nói của cổ nhân, cũng có thể nói: “ Tâm sanh tướng”.
(Xem: 2180)
Khi đề cập đến những người tu trong Phật Giáo, thì chúng ta thấy có phân ra hai khuynh hướng tu học, một số vị thì nghiêng về pháp học, còn số vị khác lại chuyên về pháp hành.
(Xem: 2536)
Người xuất gia mang trên mình một hoài bão lớn là hướng tâm đến giải thoát tự thân và giúp người khác giải thoát.
(Xem: 3307)
Đức Quán Thế Âm trở nên thân thiết trong đời sống của người dân Việt đến mức trong sâu thẳm trái tim của mỗi người...
(Xem: 2275)
Nghe nói đến người tu, tưởng chừng như người ấy làm cái gì to lớn, đội đá vá trời, dời non, lấp biển;
(Xem: 3174)
Ngũ cănngũ lực tiếng Phạn là Pancindriya và Pancabala. Indriya có nghĩa là nguồn gốc, khả năng để tất cả các thiện pháp sinh khởi.
(Xem: 2955)
Nếu người nam hay người nữ nào, hành pháp ác bất thiện, phạm giới; thân thành tựu ác hạnh; khẩu, ý thành tựu ác hạnh;
(Xem: 2341)
Tu theo Giáo môn hoặc Thiền môn, họ tuân theo lời dạy của Phật hoặc Tổ sư, bám chặt vào lời nói của Phật hay Tổ ghi chép
(Xem: 2727)
Ăn chay, không ăn thịt, là một truyền thống cao đẹp hơn ngàn năm nay ở nước ta, phù hợp một cách sâu xa với tinh thần sùng cao của Phật giáo.
(Xem: 1760)
Chuyện người tu hành bị ma quỷ nhiễu hại xưa nay không phải là hiếm. Những bậc Thánh tăng còn bị làm hại huống gì phàm tăng.
(Xem: 3088)
Khi thức dậy, điều gì là điều đầu tiên chúng ta nghĩ đến?
(Xem: 3015)
Đời sống của con người thọ mạng nhiều lắm chỉ trên dưới trăm năm.
(Xem: 3224)
Khi chúng ta thức dậy vào buổi sáng và nghe radio hoặc đọc báo, chúng ta phải đối mặt với những tin buồn: bạo lực, tội ác, chiến tranh và thiên tai.
(Xem: 2750)
Một trong những đặc điểm của đời sống xuất giadu hành. Không thường ở một nơi cố định, Tỳ-kheo có thể tùy duyên vân du giáo hóa.
(Xem: 2843)
Trong kinh Duy Thức thuộc tạng kinh phát triển, để chỉ cho sự huân tập thành khối nghiệp lực (A Lại Da ThứcMạt Na Thức,) được xem là
(Xem: 2973)
Sinh già bệnh chết là bản chất của đời sống con người. Ai cũng phải trải qua tiến trình này vì có sinh ắt có diệt. Có điều việc này đến với mỗi người nhanh chậm khác nhau.
(Xem: 2424)
Những lời chỉ dạy của đức Phật có khả năng chuyển hóa nỗi khổ niềm đau, thành an vui hạnh phúc ngay tại đây và bây giờ bằng sự tin sâu nhân quả
(Xem: 2468)
Có người ở chùa mấy mươi năm mà không ý thức được mình đang ở đoạn đường nào trên con đường mà mình đang đi.
(Xem: 2068)
Quán Thế Âm Bồ Tát có rất nhiều nhân duyên với chúng sanh trong cõi Ta Bà này.
(Xem: 2305)
Có lẽ ai cũng cảm nhận được rằng, cuộc sống này hiếm khi yên bình mà luôn đầy ắp những biến động. Với nghịch cảnh
(Xem: 2332)
Pháp thoại dưới đây Đức Phật dùng hình ảnh gương Pháp (Pháp kính) để khi soi vào vị đệ tử Phật biết chỗ thọ sinh.
(Xem: 2411)
Thói thường, đa số chúng ta những khi sung sướng, cuộc đời đang may mắn thành công, chỉ biết hưởng thụ lợi lộc, chìm đắm trong hoan lạc của ái dục.
(Xem: 2492)
Bài này sẽ viết về một chủ đề: cách tu nào đơn giản nhất cho những người có tâm hồn rất mực đơn sơ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
free website cloud based tv menu online azimenu
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant