Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Ý thức ăn chay trong đại chúng và lý giải Phật Pháp

04 Tháng Chín 201100:00(Xem: 10134)
Ý thức ăn chay trong đại chúng và lý giải Phật Pháp

Món chay ngày xưa rất đạm bạc của người tu, không cầu kỳ, không đòi hỏi những cao sang thế tục mưu cầu. Người thọ trai chỉ mong đủ để độ nhựt hành Đạo, họ khiêm tốn đến nỗi nếu đem ra so sánh thì ngày nay quá xa lìa với Đạo. Tuy nhiên nói đến ẨM THỰC CHAY dù có cầu kỳ, dù có thịnh soạn vẫn mang theo sự thanh thoát như cảnh giới của thiền môn có màu, có vàng son. Ẩm thực chay chất chứa tính công bằng cùng các giới, khơi cho mọi người cái vốn bổn thiện và từ tâm.

anchayroi-1.gif

Hưởng ứng thiện chí của Việt Nam bảo vệ toàn vẹn hệ thống môi trường và phát triển toàn cầu của Liên hiệp quốc là suy nghĩ mang tính trách nhiệm của tổ chức các hội UNESCO. Đưa ẩm thực vào chuyên mục góp phần làm sạch môi trường là một nhận thức mới, cần có sự biện giải lý thú cho nhân loại đồng thuận.

Để phong phú hóa đề tài chay ta không loại trừ ý thức đại chúng và lý giải Phật pháp.

Đại chúng định nghĩa chữ chay bằng khoa học phân chất, xác định vật phẩm chay chỉ có từ nguồn thực vật. Tính chất của vật phẩm chay dung nạp bổ sung năng lượng cuộc sống lành mạnh, cân bằng sinh lý nội tạng, không tích thừa những tố chất khó chuyển hóa. Sau nhiều năm nghiên cứu các nhà khoa học đã khẳng định được giá trị dưỡng chất trong thảo mộc là tốt nhất cho con người. Thảo mộc thay thế hoàn toàn các chất hữu cơ trong động vật. Đối với dinh dưỡng thuần túy nhân loại đã sử dụng từ khi có loài người xuất hiện vẫn là cần cho sự sống khi chưa tin cuộc sống có thảo mộc thay thế. Nhưng dinh dưỡng từ động vật dần dà đã tồn tích những mầm mống hủy diệt lớn trong xã hội. Trước hết là bệnh tật dây chuyền từ động vật sang người.

Trong cơ chế sống của động vật lây nhiễm từ hoang dã khi chúng không có đủ ý thức loại bỏ nguyên nhân gây bệnh, con người không kiểm soát được thành phần độc hại vô hình chung gánh lấy hậu quả. Đối với động vật nuôi, nhà chăn nuôi vẫn có cân đối lãi và lỗ, do vậy giá trị thành phẩm là sự chắt lọc giá trị sản phẩm thừa mà con người đã không thể sử dụng.

Môi trường sống của nhân loại không được sạch, nhân tố phá hoại cuộc sống, nhân tố đầu tiên cho một môi trường ô nhiễm. Ý thức chay trong đại chúng đưa con người lìa xa ô nhiễm từ trong thân để không thải sự ô nhiễm đến cộng đồng.

Lý gii Pht pháp trong m thc chay:

Nhà chùa gọi là trai giới. Trai giới thể hiện bản chất thiện căn, hóa giải ác nghiệp hỗ trợ đắc lực cho các bậc chân tu. Lý giải ấy là một trong ngũ giới người tu thọ trì. Nhưng hiểu đúng và đủ giới nầy cần có một nhận thức khoa học, yếu tố tâm linh đóng vai trò mở rộng khai ngộ Phật pháp.

Trước khi đưa lý giải Phật pháp, câu chuyện gặp thiền sư sẽ khơi cho quý thiện hữu một suy diễn trong ý niệm chay.

Ví dụ một câu chuyện có thật. Ngày nọ, một hành giả là sĩ quan hành quân. Chiến trận lắng lại trong yên ổn, hành giả ghé chùa nghỉ chân. Thiền sư trong chù ra chào hỏi. Hành giả hỏi rằng:

- Xin thỉnh thầy, chiến tranh ngày nào sẽ hết?

Thầy đáp:

- Ngày nào vị thấy lòng người yên tĩnh ngày ấy hết chiến tranh

- Mô Phật - Hành giả hỏi tiếp – Xin thỉnh thầy thêm câu nữa. Ăn chay mình sẽ được điều gì ?

Thầy đáp:

- Vị là trí giả, tôi xin nói ít. Con trâu, con bò cả đời chỉ ăn cỏ không biết thịt cá là gì nhưng có ai bảo chúng ăn chay đâu. Phải chăng thọ dung món chay cần phải thấu rõ chữ chay ? 

 

anchayroi-2.gif

Có ba lý giải:

1/ Ăn chay để giải nghiệp sát sanh.

2/ Ăn chay để thân tâm được trong sạch.

3/ Ăn chay để Pháp giới ứng thông.

Ba lý giải, thoạt đầu ta hình dung hoàn toàngiáo lý nhà Phật, dạy đệ tử tu Phật, nhưng phân tích sâu thì đó là khoa học.

Trên thực tế, các động vật hoang dã phần lớn sống trên sự sống sinh vật khác. Những giống ăn thịt thường hung hãn, luôn hăm he khiến xung quanh phải lẫn tránh nanh vuốt rình rập. Những con vật thừa hưởng vẫn có tính tranh đoạt hung dữ. Như vậy trong thịt động vật có những kích thích tố của bạo ngược. Những giận dữ khi phải chịu đau đớn trước khi chết đã chuyển thành độc trong từng tế bào, có bộ phận nhiều có bộ phận ít, ví dụ trong thịt heo phần đầu độc hơn.

anchayroi 4.gif

Con người có sẵn bản chất thánh thiện, biết cảm nhận sự đau đớn của các sanh vật trước khi chết. Chúng ta vô cảm chỉ vì nghề nghiệp hoặcđam mê với cái thích chưa được giải bày, vì thiện tâm chưa có duyên để khởi. Làm người ta cần đứng trên và cao hơn nữa cái nhận thức của cuộc sống hoang dã. Sự bắt đầu của một thế giới hòa bình là thiện tâm. Thiện tâm không chấp nhận máu đổ để chiến thắng nên ăn chay, không giết hại muôn loài là giải nghiệp sát sanh. Sát sanh là bài tập thường ngày của bạo lực. Sát sanh đã đến cho nhân loại chứ không còn hạn chế trong thế giới của loài vật. Thế giớicảnh báo nhưng chỉ là bề mặt của đạo đức còn chiều sâu chưa thực sự hoàn hảo.

Vật phẩm chay giúp loài người xa dần tội ác, xa dần tính hung hãn và huân tập căn cơ thiện lành. Sự vung vãi của cái ác đưa đẩy con người đến chỗ cạn kiệt nhân tính, xã hội trở thành tập thể vô trách nhiệm với tha nhân. Xã hội đã đầy rác rưỡi từ trong tâm hồn. Ăn chay để kéo thân tâm con người trở lại với cân bằng, với trong sạch, sự ô nhiễm bằng ý thức đại chúng được loại bỏ. Sinh lý không xáo trộnbản chất của bình yên, không tật bịnh, không sanh bất hòa từ thân, ý và pháp nội lẫn pháp ngoại. Sự trong sạch đồng nghĩa với thanh tịnh, hệ quả không sanh không diệt, giúp cho tinh thần sáng suốt. Sáng suốttrí huệ, là đuốc soi. Việc làm chân chính, bắt nguồn từ trong suy nghĩ sáng suốt. Pháp đã ứng thông là vậy!

Thấy Đạo trong Đờithậm thâm vi diệu Pháp,

Thấy Đời trong Đạo là Cứu cánh Niết bàn.

anchayroi-3.gif 

Đạo và đời không xa lìa, Cái nhân trong đời tạo cái quả trong đạo, ngược lại cái duyên trong đạo chuyển đổi cái kiếp trong đời. Đạo dẫn con người đi đến nơi an lạc, nhưng an lạc chính ở nơi ta cùng nhau tạo nên. Phát xuất từ trai giới trong nhà Phật hay từ chay tịnh trong nhân thế là những bước đi đầu tiên đến miền an lạc. An lạc là xứ sở của công bằng, trong đó con người sống biết nhìn xung quanh mình, biết nghĩ có kẻ khác sợ ta tạo ra những lo âuphiền nhiễubiết mình là người có lỗi.

Khoa học đã có lý, Phật pháp cũng hữu tình. Còn nơi ta? Xin hãy đồng thuận vậy.

Trn Văn Đường 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2313)
Cái chết của những người thân yêunghiệp chướng của tôi hay của họ? Cuộc sống của chúng ta luôn tương tác và phụ thuộc lẫn nhau, và...
(Xem: 2776)
Một người đàn ông ngã bệnh và tìm đến bác sĩ. Vị bác sĩ khám cho bệnh nhân này và sau đó viết cho anh ta một toa thuốc trên một mảnh giấy.
(Xem: 2557)
Vô ưu, Phạn ngữ Asoka, Hán ngữ phiên âm A du ca, A thúc ca, A thuật ca… dịch nghĩa là Vô ưu hoa, hoa không ưu tư phiền muộn.
(Xem: 2245)
Tu tâmtìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm.
(Xem: 2671)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2548)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2378)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2683)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2458)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3279)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2334)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2428)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2562)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2482)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2560)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2237)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2604)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3071)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2668)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2732)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 3020)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2580)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2623)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4125)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2792)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3089)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3328)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2302)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2534)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2817)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 3019)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2887)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2633)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2643)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3204)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2671)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2322)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2413)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2505)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2614)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2707)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2767)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3292)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2575)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2139)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2614)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2120)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2896)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2995)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 3030)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant