Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thầy tôi

15 Tháng Chín 201100:00(Xem: 12687)
Thầy tôi


THẦY TÔI

 Lần đầu tiên tôi gặp thầy là ngày đầu tiên tôi bước chân vào tu viện bắt đầu cuộc đời tu học của mình. Lúc đó, tôi vừa trải qua một chuyến hành trình cả ngàn cây số từ Sài Gòn ra Huế, người vừa mệt mỏi vừa buồn ngủ. Nhưng em tôi nói là phải đi chào ôn trụ trì và ôn Từ Đức. “Ôn” là từ của người miền trung dùng để gọi những bậc tôn túc nhưng hai chữ “Từ Đức” làm cho tôi có ấn tượng. Từ Đức có nghĩa là hiền từ, từ biđức hạnh. Từ Đức là tên một ngôi chùa ở Cam Ranh-Khánh Hòa mà thầy tôi làm trụ trì. Vì muốn xây dựng một chúng tu tập “đi như một dòng sông” nên thầy tôi phải rời Từ Đức để ra ở Từ Hiếu-Huế. Khi chào ôn trụ trì Từ Hiếu xong, em tôi dắt tôi đến phòng của ôn Từ Đức để chào nhưng không gặp, chúng tôi về lại tăng xá để nghỉ ngơi. Mọi người thường tránh không gọi pháp danh của thầy mà gọi là “Ôn Từ Đức”, chỉ gọi tên ngôi chùa thầy đang trụ trì để tỏ lòng tôn kính. Nhưng với tôi, tôi chỉ gọi thầy tôi là “Thầy”. Chữ “Thầy” nghe thật gần gũi, thân thương và cũng đã bao gồm tất cả nghĩa với lòng quý kính của tôi đối với thầy.

 ht_giac_vien Đang loay hoay dọn chỗ nghỉ, tôi nghe một giọng nói nhẹ nhẹ, trầm trầm, vui vui, mang âm điệu miền trung từ ngoài cửa “Đâu, ai là người mới tới đâu?”. Tôi quay ra thì thấy một ông thầy độ khoảng 60 tuổi, dáng người thấp thấp, gầy gầy mang một vẻ thanh thoát hiền từ với cái nét của một nhà tu khổ hạnh, nét mặt tươi nhuần nhìn tôi cười nhẹ và hỏi “Con mới tới phải không?”. Sau vài lời chào hỏi, thầy bảo tôi viết cho thầy một bài về hoàn cảnh gia đìnhtâm nguyện xuất gia của mình. Với trạng thái mệt mỏi sau một chuyến đi dài cả ngàn cây số thì không làm sao tôi có thể viết một bài văn hay được, tôi viết cho thầy một bài mà sau đó tôi đọc lại cũng thấy buồn cười, không phải là một bài viết của một người có học hành đàng hoàng mà giống như bài viết của một đứa học trò cấp hai. Tôi nộp bài cho thầy xong, buổi chiều, thầy gặp tôi và nói “bài viết gì mà câu văn nó cụt cụt làm sao đó, con viết lại cho thầy bài khác nhé”. Tôi vâng lời nhưng xin thầy cho tôi hẹn vài ngày sau sẽ nộp, thầy đồng ý. Tôi cũng hơi khó chịu vì tại sao cứ phải viết đi viết lại, sau này tôi mới biết đó là thầy tập cho chúng tôi cách làm văn và cách tư duy để chia sẻ kinh nghiệm tu tập của mình trước đại chúng.

 Với chúng tôi, thầy không chỉ là người thầy mà thầy như người cha, như người mẹ, như người anh và đôi khi như một người bạn, thầy luôn gần gũi theo sát từng anh em trong chúng để hiểu được tính tình và tâm tư của từng người để thầy có cách nâng đỡ, dạy dỗ. Thầy làm cho chúng tôi không có cảm giác là đang sống trong tu viện, đang sống xa nhà mà chúng tôicảm giác là mình như đang được ở nhà, đang được ở gần với cha mẹ, anh em. Có những đêm không ngủ, thầy đi đến từng phòng trong tăng xá để xem anh em ngủ như thế nào, có người nằm co ro không đắp mền thì thầy kéo mền đắp cho. Có người nằm thò tay, chân ra khỏi mùng thì thầy kéo lại để chúng tôi nằm không bị muỗi cắn. Lúc mới đi tu, ai cũng có những tập khí ngoài đời của mình, tất cả anh em chúng tôi đều chưa quen được với thời khóa của tu viện, nên mỗi sáng sau khi chuông thức chúng thỉnh xong là thầy tôi cầm đèn đi một vòng tăng xá để đánh thức chúng tôi dậy. Đến trước mỗi phòng, thầy gõ vào cửa ba tiếng và cầm đèn rọi vào phòng, có những em dậy không nổi, thầy đến bên để đánh thức, có lần, có em do ngủ say quá thầy gọi mãi không dậy còn đạp thầy một cái ngã lăn, nghe kể như vậy tôi xót thầy lắm. Vì với tôi, từ sau khi học xong, đi làm va chạm nhiều, tôi luôn muốn tìm cho mình một người thầy để quý kính, có thể cảm phục được mình và có đức hạnh đủ khả năng để giúp tôi thuần hóa được bản ngã và tôi đã được gặp thầy. Ở thầy có đầy đủ phẩm hạnh của một người thầy mà tôi đang tìm, nên tôi rất thương kính và trân quý thầy. Ở gần thầy, tôi cảm thấy thật ấm áp, trong lòng thật thanh thoát, nhẹ nhàng. Những lời dạy của thầy giúp tôi hiểu được nhiều điều trong việc tu tập. Thầy dạy cho chúng chúng tôi từng lời ăn tiếng nói, từ cách bước đi, từ cách ăn như thế nào để đúng là mình đang ăn cơm chứ không phải mình đang ăn quá khứ, đang ăn tương lai, cách suy nghĩ, cách tư duy, cách nhìn một sự việc, cách hành xử như thế nào để đúng với phẩm chất của một vị tu sĩ. Những việc chúng tôi làm hàng ngày như đi, đứng, nằm, ngồi, ăn cơm, rửa bát, giặt áo, kinh hành, những việc mà tôi tưởng chừng mình đã biết làm từ lâu, nhưng thực ra vì cuộc sống bận rộn nên lúc nào cũng làm như bị ma đuổi, làm mà nghĩ đến những việc đâu đâu nên thực sự là không làm. Thầy luôn sẵn sàng ngồi nghe chúng tôi chia sẻ những khó khăn của mình để tìm cách nâng đỡ, dạy dỗ, giúp chúng tôi tháo gỡ những khó khăn của chính mình để vững bước trên con đường tu tập.

 Tôi chưa bao giờ thấy thầy tôi nổi giận, cho dù anh em chúng tôi có làm điều sai lầm. Thầy thường nhỏ nhẹ, nhắc nhở và dạy thật cặn kẽ mỗi khi chúng tôi phạm lỗi. Với chúng tôi, thầy luôn dùng ái ngữ để giáo huấn và thầy dùng chính oai nghi tế hạnh của mình để chúng tôi thực tập theo. Sau mỗi lần được thầy nhắc nhở, nhìn thấy được khuyết điểm và lỗi lầm của mình, chúng tôi lại quyết tâm thực tập sao cho không phạm phải những lỗi mà mình đã vấp phải. Ở thầy, tôi thấy luôn có sự thanh thoát, oai nghiêm, từ bi, vững chãi. Tôi nghĩ là mình không đủ từ ngữ để diễn tả hết được phẩm hạnh và oai đức của thầy.

 Thời gian gần thầy giúp tôi thay đổi rất nhiều. Tôi như được làm mới lại, không còn là chàng thanh niên sôi nổi, nóng nảy, hiếu động mà giờ đây tôi là một tu sĩ điềm tĩnh, hiền lành, nhẹ nhàng, vững chãi, dễ tha thứ, dễ chấp nhận mọi thứ diễn ra xung quanh mình. Giờ đây, tôi không còn được ở gần thầy, những lời dạy của thầy tôi cũng không nhớ hết nhưng tôi áp dụng được vào nếp sống tu tập của mình. Và hình ảnh thầy luôn nằm trong tâm tôi, hình dáng một vị thầy già thấp thấp, gầy gầy với khuôn mặt xương xương tươi nhuần, với ánh mắt hiền từ, tướng đi hơi khòm với dáng vẻ thanh thoát, tự tại, oai nghiêm vững chãi, giọng nói trầm ấm mang âm hưởng miền trung có sức thuyết phục người nghe. Với tôi, thầy như một tấm gương sáng mà tôi cứ phải soi mình vào tấm gương ấy để cố gắng trên con đường tu tập.

 Thầy tôi, thượng Giác hạ Viên, trụ trì chùa Từ Đức, Cam Ranh-Khánh Hòa

Hoằng Tín

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2627)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2512)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2319)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2630)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2414)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3219)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2289)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2382)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2511)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2451)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2520)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2172)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2550)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3028)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2628)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2675)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 2948)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2522)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2555)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4038)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2756)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3020)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3283)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2274)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2489)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2771)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 2978)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2845)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2596)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2607)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3175)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2585)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2254)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2360)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2464)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2581)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2666)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2710)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3248)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2542)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2116)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2569)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2034)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2800)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2873)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2905)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2687)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
(Xem: 2483)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2758)
Đời sống của con người thọ mạng nhiều lắm chỉ trên dưới trăm năm. Trong chuỗi thời gian này con người hưởng hạnh phúc không bao nhiêu,
(Xem: 2333)
Đạo đứccăn bản làm người. Một khi có đạo đức rồi, chúng ta mới có thể đứng vững được.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant