Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thầy tôi

15 Tháng Chín 201100:00(Xem: 12739)
Thầy tôi


THẦY TÔI

 Lần đầu tiên tôi gặp thầy là ngày đầu tiên tôi bước chân vào tu viện bắt đầu cuộc đời tu học của mình. Lúc đó, tôi vừa trải qua một chuyến hành trình cả ngàn cây số từ Sài Gòn ra Huế, người vừa mệt mỏi vừa buồn ngủ. Nhưng em tôi nói là phải đi chào ôn trụ trì và ôn Từ Đức. “Ôn” là từ của người miền trung dùng để gọi những bậc tôn túc nhưng hai chữ “Từ Đức” làm cho tôi có ấn tượng. Từ Đức có nghĩa là hiền từ, từ biđức hạnh. Từ Đức là tên một ngôi chùa ở Cam Ranh-Khánh Hòa mà thầy tôi làm trụ trì. Vì muốn xây dựng một chúng tu tập “đi như một dòng sông” nên thầy tôi phải rời Từ Đức để ra ở Từ Hiếu-Huế. Khi chào ôn trụ trì Từ Hiếu xong, em tôi dắt tôi đến phòng của ôn Từ Đức để chào nhưng không gặp, chúng tôi về lại tăng xá để nghỉ ngơi. Mọi người thường tránh không gọi pháp danh của thầy mà gọi là “Ôn Từ Đức”, chỉ gọi tên ngôi chùa thầy đang trụ trì để tỏ lòng tôn kính. Nhưng với tôi, tôi chỉ gọi thầy tôi là “Thầy”. Chữ “Thầy” nghe thật gần gũi, thân thương và cũng đã bao gồm tất cả nghĩa với lòng quý kính của tôi đối với thầy.

 ht_giac_vien Đang loay hoay dọn chỗ nghỉ, tôi nghe một giọng nói nhẹ nhẹ, trầm trầm, vui vui, mang âm điệu miền trung từ ngoài cửa “Đâu, ai là người mới tới đâu?”. Tôi quay ra thì thấy một ông thầy độ khoảng 60 tuổi, dáng người thấp thấp, gầy gầy mang một vẻ thanh thoát hiền từ với cái nét của một nhà tu khổ hạnh, nét mặt tươi nhuần nhìn tôi cười nhẹ và hỏi “Con mới tới phải không?”. Sau vài lời chào hỏi, thầy bảo tôi viết cho thầy một bài về hoàn cảnh gia đìnhtâm nguyện xuất gia của mình. Với trạng thái mệt mỏi sau một chuyến đi dài cả ngàn cây số thì không làm sao tôi có thể viết một bài văn hay được, tôi viết cho thầy một bài mà sau đó tôi đọc lại cũng thấy buồn cười, không phải là một bài viết của một người có học hành đàng hoàng mà giống như bài viết của một đứa học trò cấp hai. Tôi nộp bài cho thầy xong, buổi chiều, thầy gặp tôi và nói “bài viết gì mà câu văn nó cụt cụt làm sao đó, con viết lại cho thầy bài khác nhé”. Tôi vâng lời nhưng xin thầy cho tôi hẹn vài ngày sau sẽ nộp, thầy đồng ý. Tôi cũng hơi khó chịu vì tại sao cứ phải viết đi viết lại, sau này tôi mới biết đó là thầy tập cho chúng tôi cách làm văn và cách tư duy để chia sẻ kinh nghiệm tu tập của mình trước đại chúng.

 Với chúng tôi, thầy không chỉ là người thầy mà thầy như người cha, như người mẹ, như người anh và đôi khi như một người bạn, thầy luôn gần gũi theo sát từng anh em trong chúng để hiểu được tính tình và tâm tư của từng người để thầy có cách nâng đỡ, dạy dỗ. Thầy làm cho chúng tôi không có cảm giác là đang sống trong tu viện, đang sống xa nhà mà chúng tôicảm giác là mình như đang được ở nhà, đang được ở gần với cha mẹ, anh em. Có những đêm không ngủ, thầy đi đến từng phòng trong tăng xá để xem anh em ngủ như thế nào, có người nằm co ro không đắp mền thì thầy kéo mền đắp cho. Có người nằm thò tay, chân ra khỏi mùng thì thầy kéo lại để chúng tôi nằm không bị muỗi cắn. Lúc mới đi tu, ai cũng có những tập khí ngoài đời của mình, tất cả anh em chúng tôi đều chưa quen được với thời khóa của tu viện, nên mỗi sáng sau khi chuông thức chúng thỉnh xong là thầy tôi cầm đèn đi một vòng tăng xá để đánh thức chúng tôi dậy. Đến trước mỗi phòng, thầy gõ vào cửa ba tiếng và cầm đèn rọi vào phòng, có những em dậy không nổi, thầy đến bên để đánh thức, có lần, có em do ngủ say quá thầy gọi mãi không dậy còn đạp thầy một cái ngã lăn, nghe kể như vậy tôi xót thầy lắm. Vì với tôi, từ sau khi học xong, đi làm va chạm nhiều, tôi luôn muốn tìm cho mình một người thầy để quý kính, có thể cảm phục được mình và có đức hạnh đủ khả năng để giúp tôi thuần hóa được bản ngã và tôi đã được gặp thầy. Ở thầy có đầy đủ phẩm hạnh của một người thầy mà tôi đang tìm, nên tôi rất thương kính và trân quý thầy. Ở gần thầy, tôi cảm thấy thật ấm áp, trong lòng thật thanh thoát, nhẹ nhàng. Những lời dạy của thầy giúp tôi hiểu được nhiều điều trong việc tu tập. Thầy dạy cho chúng chúng tôi từng lời ăn tiếng nói, từ cách bước đi, từ cách ăn như thế nào để đúng là mình đang ăn cơm chứ không phải mình đang ăn quá khứ, đang ăn tương lai, cách suy nghĩ, cách tư duy, cách nhìn một sự việc, cách hành xử như thế nào để đúng với phẩm chất của một vị tu sĩ. Những việc chúng tôi làm hàng ngày như đi, đứng, nằm, ngồi, ăn cơm, rửa bát, giặt áo, kinh hành, những việc mà tôi tưởng chừng mình đã biết làm từ lâu, nhưng thực ra vì cuộc sống bận rộn nên lúc nào cũng làm như bị ma đuổi, làm mà nghĩ đến những việc đâu đâu nên thực sự là không làm. Thầy luôn sẵn sàng ngồi nghe chúng tôi chia sẻ những khó khăn của mình để tìm cách nâng đỡ, dạy dỗ, giúp chúng tôi tháo gỡ những khó khăn của chính mình để vững bước trên con đường tu tập.

 Tôi chưa bao giờ thấy thầy tôi nổi giận, cho dù anh em chúng tôi có làm điều sai lầm. Thầy thường nhỏ nhẹ, nhắc nhở và dạy thật cặn kẽ mỗi khi chúng tôi phạm lỗi. Với chúng tôi, thầy luôn dùng ái ngữ để giáo huấn và thầy dùng chính oai nghi tế hạnh của mình để chúng tôi thực tập theo. Sau mỗi lần được thầy nhắc nhở, nhìn thấy được khuyết điểm và lỗi lầm của mình, chúng tôi lại quyết tâm thực tập sao cho không phạm phải những lỗi mà mình đã vấp phải. Ở thầy, tôi thấy luôn có sự thanh thoát, oai nghiêm, từ bi, vững chãi. Tôi nghĩ là mình không đủ từ ngữ để diễn tả hết được phẩm hạnh và oai đức của thầy.

 Thời gian gần thầy giúp tôi thay đổi rất nhiều. Tôi như được làm mới lại, không còn là chàng thanh niên sôi nổi, nóng nảy, hiếu động mà giờ đây tôi là một tu sĩ điềm tĩnh, hiền lành, nhẹ nhàng, vững chãi, dễ tha thứ, dễ chấp nhận mọi thứ diễn ra xung quanh mình. Giờ đây, tôi không còn được ở gần thầy, những lời dạy của thầy tôi cũng không nhớ hết nhưng tôi áp dụng được vào nếp sống tu tập của mình. Và hình ảnh thầy luôn nằm trong tâm tôi, hình dáng một vị thầy già thấp thấp, gầy gầy với khuôn mặt xương xương tươi nhuần, với ánh mắt hiền từ, tướng đi hơi khòm với dáng vẻ thanh thoát, tự tại, oai nghiêm vững chãi, giọng nói trầm ấm mang âm hưởng miền trung có sức thuyết phục người nghe. Với tôi, thầy như một tấm gương sáng mà tôi cứ phải soi mình vào tấm gương ấy để cố gắng trên con đường tu tập.

 Thầy tôi, thượng Giác hạ Viên, trụ trì chùa Từ Đức, Cam Ranh-Khánh Hòa

Hoằng Tín

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 3596)
“Này Cunda, nếu những gì thuộc quá khứhư vọng, không thật, không có lợi ích, Như lai không trả lời.
(Xem: 3761)
Sống trong thế giới đầy biến động của đại dịch COVID-19 bùng phát, mới thấy sự hiện hữu của con người trong mối tương quan
(Xem: 2895)
Khi Đức Phật còn hiện hữu cõi Ta-bà, chúng đệ tử xuất gia sống thanh tịnh, hòa hợp thành một thể thống nhất,
(Xem: 2679)
Ngoài Danh và Sắc, phần tâm linh và phần vật chất, là hai thành phần cấu tạo chúng sanh, Phật Giáo không chấp nhận
(Xem: 3186)
Ajhan Chah nói rằng nếu bạn muốn chuyển hóa tâm, bạn phải biết và chuyển hóa trái tim. Và khi thực hành bạn cảm thấy không thoải mái, muốn bỏ cuộc, đó là khi bạn biết mình đang đi đúng đường.
(Xem: 3674)
Giã từ cõi mộng điêu linh Tôi về buôn bán với mình phôi pha.
(Xem: 3275)
Những rộn ràng họp hội mấy giờ trước đã lắng xuống. Tiếng nói, giọng cười ai đó, đã tan vào hư không.
(Xem: 3346)
Những rộn ràng họp hội mấy giờ trước đã lắng xuống. Tiếng nói, giọng cười ai đó, đã tan vào hư không.
(Xem: 2950)
Học pháp là công việc quan trọng của người con Phật nếu muốn đạt được mục đích tối hậu của sự giải thoát.
(Xem: 3424)
Lắng nghe là một kỹ năng căn bản để kết nối cộng đồng. Lắng nghe để hiểu mình, hiểu người, để trút bỏ những ưu phiền, lạc quan vui sống, xây dựng xã hội tốt đẹp.
(Xem: 3772)
Pháp mang lại an bình, là nơi trú ẩn và hạnh phúc cho thế gian. Nếu thế giới bị tước đoạt Pháp, chúng ta không thể tìm thấy bất kỳ sự bình an nào ở đâu cả.
(Xem: 3599)
Vô Tầm Vô Tứ Định là nền tảng cơ bản của tất cả các loại Định trong Thiền Phật Giáo gồm chung cả ba hệ: Nguyên Thủy, Phát Triển và Thiền Tông.
(Xem: 3592)
Thiểu Dục là muốn ít; Tri túc là biết đủ. Muốn ít là đối với cái chưa có, mà vì nhu cầu, mong cho có.
(Xem: 2943)
Nói đến “Tâm” ai ai cũng hiểu được liền liền, nhưng đi sâu vào vấn đề là việc khác. Theo tôi được biết có nhiều người thường nói “Tâm” là (trái tim) có gì đâu mà diễn bày.
(Xem: 3591)
Theo nhà Phật thì trong kiếp này, có người “ở hiền” nhưng lại không được “gặp lành”, nguyên nhân là bởi họ phải “trả” những thứ đã “vay” ở trước đó!
(Xem: 3107)
Bồ tát là người tu tánh Không, ở trong tánh Không nhưng có lòng bi khi thấy chúng sanh vì không biết tánh Không nên điên đảo vọng tưởng
(Xem: 3620)
Kính số 52 Bát Thành có đoạn viết về sơ thiền một cách ngắn gọn như sau: “Ở đây, này Gia chủ, Tỷ-kheo ly dục, ly bất thiện pháp chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ”
(Xem: 3430)
Lời cầu nguyện được đức Đạt Lai Lạt Ma thứ mười bốn của Tây Tạng sáng tác, Vinh Danh và Nguyện Cầu Tam bảo Đại Bi: Đức Phật, Giáo Huấn, và Cộng Đồng Tâm Linh.
(Xem: 3418)
Cổ nhân có câu “họa tòng khẩu xuất” như muốn cảnh tỉnh, khuyên răn người đời chớ để cho cái miệng mình nói năng tùy tiện, lung tung mà có lúc tự rước họa vào thân!
(Xem: 3856)
Từ thuở ấu thơ cho đến lúc trưởng thành, có thể ai cũng từng được nghe những câu nói đại loại như: “Nếu không nói được gì tốt đẹp thì tốt nhất nên im lặng”.
(Xem: 3929)
Nếu kẻ nào cố ý tạo nghiệp, Ta nói rằng kẻ ấy phải thọ lấy quả báo. Hoặc thọ ngay trong đời hiện tại, hoặc thọ vào đời sau.
(Xem: 3302)
Trong Kinh Như Thị Ngữ (Itivutthaka), Đức Phật nói: "Tất cả những công đức mà ta thực hiện ở trên đời góp lại cũng không bằng công đức của sự thực tập Từ Quán.
(Xem: 3633)
Đức Phật khuyên ta mỗi ngày cần quán tưởng đến năm điều. Tất cả chúng ta đều biết những điều ấy, nhưng ta thường dễ quên.
(Xem: 3336)
Chủ đề khá nhạy cảm đã dẫn dắt vô số người trong quá khứ cũng như hiện tại; Phật tử cũng như tín đồ các Tôn giáo hiện nay ...
(Xem: 3151)
Trong Kinh Như Thị Ngữ (Itivutthaka), Đức Phật nói: "Tất cả những công đức mà ta thực hiện ở trên đời góp lại cũng không bằng công đức của sự thực tập Từ Quán.
(Xem: 3198)
Nếu bị người khác làm tổn thương, bạn vẫn cần yêu thương họ, nếu người khác khi dễ bạn, bạn phải tha thứ cho họ đấy gọi là rộng kết duyên lành.
(Xem: 4597)
Tuệ Trí của Đức Đạt Lai Lạt Ma là một phần trích từ xuất bản trước đó của quyển Năng lực của Từ bi
(Xem: 3571)
Quán niệm vô thường là một trong những nội dung tu tập căn bản của người Phật tử. Mọi sự mọi vật quanh ta luôn vận động, biến đổi từng phút, từng giây.
(Xem: 3124)
Xung quanh các hiện tượng mê tín dị đoan “có tổ chức” diễn ra gần đây, đã có nhiều ý kiến trái chiều về “con đường tu tập” với những...
(Xem: 4463)
Bụt đã từng sống với hàng ngàn vị khất sĩ túc trực xung quanh. Bụt cũng đi, cũng ngồi, cũng ăn cơm với những vị nam và nữ khất sĩ khác nhưng Ngài luôn an trú trong sự tĩnh lặng.
(Xem: 3386)
Chúng ta ai ai cũng biết, trong cuộc sống hiện tại đương thời, bây giờ là thời buổi khoa học đương thời đi lên.
(Xem: 3985)
Căn bản đời sống của chúng ta là đi tìm sự hạnh phúc và tránh né sự khổ đau, tuy nhiên điều tốt nhất mà ta có thể làm cho chính bản thân
(Xem: 4549)
Theo quan niệm của Phật giáo, Khổ (zh. 苦, sa. duḥkha, pi. dukkha) là cơ sở quan trọng của Tứ Diệu Đế.
(Xem: 3808)
Thoạt nhìn thì tánh Khôngtừ bi có vẻ ngược hướng nhau, vì tánh Không nhắm đến một thực tại tuyệt đối còn từ bi thì lại hướng về một thế giới và chúng sanh vô thường, tương đối.
(Xem: 3273)
Trong nền văn hóa của chúng ta, mọi người rất khó khăn để hướng sự yêu thương tử tế đến với chính bản thân họ.
(Xem: 3529)
Ngồi lắng lòng lại để cảm nhận từng hơi thở trong ta, nghe những thanh âm của cuộc sống và nghĩ về cuộc đời của những người ngoài kia,
(Xem: 3102)
Trong xã hội Ấn Độ thời cổ đại, vị trí người phụ nữ hãy còn thấp kém. Tôn giáo và các giáo phái đương thời không đồng tình cho người nữ xuất gia.
(Xem: 3305)
Trong đời sống thường nhật, nếu muốn được tự do tự tại tất phải thực hiện bằng được hai nguyên tắc “thiểu dục” và “tri túc”.
(Xem: 3800)
Theo lời Phật dạy, nhân quả là một định luật mang tính tất yếu. Gieo nhân lành thì được hưởng quả lành, tạo nhân ác thì chịu quả báo ác.
(Xem: 3787)
Phật dạy: “Không có gì là ngẫu nhiên”. Dường như nó cũng là một sự sắp xếp tưởng như vô tình mà lại hữu ý để loài người nhận ra những điều quan trọng, điều gì đó lớn hơn con virus...
(Xem: 3347)
Đã có quá nhiều bài trên các trang mạng nói đến chính giáotà giáo. Đứng góc độ nào để phân biệt chính và tà?
(Xem: 3236)
Theo Phật giáo, nghiệp là hành động có tác ý, chủ ý của thân (Kāya, 身), khẩu (Vacī, 口), ý (Mano, 意).
(Xem: 3209)
“Lại nói: Ta vừa khởi một tâm thì nó đã thuộc về quá khứ. Tâm ta chưa khởi mới gọi là vị lai. Chẳng phải tâm vị lai tức là tâm quá khứ, tâm hiện tại lại ở tại chỗ nào.
(Xem: 3139)
Phàm ở đời, những ai muốn xây dựng sự nghiệp lớn, đều phải có đức nhẫn nhục để vượt qua bao lần thất bại mới đạt được thành công.
(Xem: 3573)
Giữa tâm điểm đại dịch COVID-19 diễn ra một cách phức tạp trong đời sống thực tiễn không chỉ ở nước ta mà khắp cả các nước trên hành tinh này,
(Xem: 3398)
Muốn ít và biết đủ tiếng Hán gọi là “Thiểu dục-Tri túc”. Đây là hai khái niệm Phật học được đề cập nhiều trong Kinh tạng, Luật tạng cũng như trong Tạng vi diệu pháp.
(Xem: 3395)
Một người khi sắp mạng chung, hành trang để đi đến đời sống khác chắc chắn không phải là tiền bạc, danh vọng mà đó chính là nghiệp thiện hay ác của chính mình.
(Xem: 3467)
Dzongsar Khyentse Rinpoche lấy phim làm một ví dụ cho lời dạy của Đức Phật về luân hồi, niết bànbản thân đời sống.
(Xem: 3952)
Đức Phật nói rằng không thể có một đời sống tâm linh chân chính nếu không có một trái tim rộng lượng.
(Xem: 3424)
Giữa tâm điểm đại dịch COVID-19 diễn ra một cách phức tạp trong đời sống thực tiễn không chỉ ở nước ta mà khắp cả các nước trên hành tinh này,
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant