Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Những cánh hoa mùa hạ

02 Tháng Mười 201100:00(Xem: 13472)
Những cánh hoa mùa hạ

 Nói đến mùa hạ, người ta thường nghĩ về hoa sen. Một loài hoa mang nhiều tố chất đặc thù mà ít loài hoa nào có được. Bởi hoa sen vốn sinh ra không phải dùng để trang điểm cho những vẻ đẹp ủy mị thường tình, mà hoa sen được biết đến bởi tính chất vô nhiễm “Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Một loài hoa vừa mang hương thơm lại có sắc đẹp, ẩn chứa diệu mầu hai cõi sắc không. Bình thường ai cũng quý trọng loài hoa trong chốn bùn lầy này. Hoa còn mang ý nghĩa chỉ cho trái tim người (nhục đoàn tâm), biểu thị tâm thể nhứt như thanh tịnh vô ngần.

Là loài hoa sanh trưởng nơi vùng nhiệt đới, nhờ kết hợp nắng mưa vào hạ mà trổ nhụy ra hoa. Do đó sắc hoa sen luôn tươi nhuần, hương hoa thì thanh nhã dịu dàng mà lan tỏa. Sắc hương của sen đã từng ngự trị ở miền quê hương tịnh lạc. Nhưng trong mọi góc cạnh cuộc sống, hoa sen vẫn có chỗ đứng riêng. Mang ảnh tượng từ cõi nhân gian, hoa thanh thoát tự tại vươn lên không chút vướng nhiễm bụi trần.

Đức Thế Tôn khi còn tại thế cũng thường lấy hoa sen làm thí dụ trong những bài thuyết giảng, ngầm ý chỉ cho đời sống thanh cao thoát tục của hàng tăng lữ. Nghĩ về hoa sen, ta liên tưởng đến mùa hạ. Vì đây là mùa an cư kiết hạ. Mùa tu tập định kỳ cho Tăng chúng Phật giáo trên khắp hoàn cầu( trừ các vùng Bắc cực tại các xứ Âu Mỹ, Tăng chúng lại an cư vào mùa đông, mùa cực lạnh lại đầy mưa tuyết. Gọi là mùa kiết đông). Nhìn chung, thì Phật giáo ở hai vùng đông tây có nhiều điểm dị biệt về phương thức tổ chức, cũng như về khái niệm tu tập hoằng dương chánh pháp. Nhưng sự thể hiện chân ý đạo mầu vẫn không nằm ngoài giới luật của Phật, vẫn dựa trên nền tảng tam vô lậu học để khắc chế nội tâm và vun bồi đạo hạnh cho người xuất thế.

 Ngoài vẻ đẹp thuần túy, hoa sen còn nêu rõ đặc tính khi hoa nở thì gương hạt nhụy cánh đều đầy đủ trong cùng một lúc. “Nhân quả đồng thời tỏa hiện” là ý ẩn dụđức Thế Tôn thường nêu ra trong các bộ kinh đại thừa, nói lên thể tánh chân như đồng nhất của chư Phật cùng tất cả chúng sanh. Phật đã từ ngôi nhà thế gian tu tập thành chánh giác. Chúng sanh thì còn mãi đắm mê trong nhà lửa tam giới, chẳng khác nào như cánh sen còn nằm sâu nơi chốn bùn lầy, phải chờ nhân duyên hội tụ cùng sự nỗ lực của tự thân. Hình ảnh hoa sen với hương sắc dịu dàng tinh tế, ngầm ý chỉ cho tâm bồ đề thanh tịnh của chúng sanh luôn sẵn có. Dù bị lưu chuyển qua bao kiếp trần nhưng tâm bồ đề ấy không hề bị hoen ố mai một.

Như vậy, hoa sen nghiễm nhiên trở thành biểu tượng cao đẹp cho hành giả tu tập Phật thừa. Và mùa hạ cũng là mùa trổ hoa phước trí cho người con Phật. “Bao nhiêu công đức vô biên, đều do hạ lạp cần chuyên tháng ngày”. Màu hoa trong mùa hạ lạp được toả sáng trên mỗi mảnh y ca sa, trên những bước chân người tìm về cảnh Phật. Hoa phước trí nở rộ trong đạo tràng qua mỗi mùa hạ lạp đã nói lên được truyền thống tốt đẹp luôn được truyền thừa tiếp nối. Mỗi ngôi trường hạ là một khu vườn trí huệ ươm mầm cho hạt giống bồ đề tăng trưởng. Mỗi mùa hạ là mỗi mùa công đức tuổi lạp được vun bồi. Mùa hạ ở vùng nhiệt đới lại là mùa mưa lũ. Mùa chúng côn trùng sanh sôi nảy nở. Vì thế mà Đức Bổn Sư của chúng ta đã lập ra mùa kiết hạ tạo duyên cho hàng tín chủ làm công đức cúng dường, hộ trì cho chúng Tăng tịnh tu trong ba tháng, tránh đi lại làm di hại đến các loài sanh chủng. Phật giáo nguyên thủy mang đậm hình thức hoà hợp chúng, nêu cao tính đoàn thể tự tu tự chứng. Tăng đoàn hoà hợp nhờ luôn thể hiện tính tự giác cao độ. Và hơn hết là biết lấy giới luật làm áo giáp kiên cố, lấy tinh tấn để huân sâu thêm đạo nghiệp và lấy định huệ để thắp sáng tự tâm.

 Mùa hạ.. mùa của những cánh sen hồng trắng đua nở, cũng sẽ đưa chúng ta tìm về bên những ngôi trường hạ. Ở đây ta được tận mắt nhìn thấy những sắc vàng y rực rỡ như những cánh sen tuyệt tác của người tu sĩ. Tất cả dường như đang hiện hữu nơi đây, đang thực sự trở về một thời hoằng hoá nơi Kỳ Viên Tịnh Xá. Những ngôi trường hạ bây giờ, dù không mang đậm sắc thái tu chứng như thời chư vị thánh nhơn, nhưng vẫn giữ được mọi nếp sống trang nghiêm trong một không gian đầy đạo vị. Đây là những môi trường tu học vừa mang tính truyền thống thanh cao, lại vừa khế hợp với Đạo Pháp – Dân tộc ngay thời đương đại hết sức sinh động hài hoà. Chính nhờ giữ được những ý nghĩa đó, mà mỗi năm các ngôi trường hạ lại ra đời, thu hút các tăng ni sinh trẻ nương về tu học. Mỗi năm ba tháng tịnh tu, mỗi mùa hạ là sẽ tạo cơ duyên cho những cành liên hoa đơm bông nở rộ, đem lại bao sức sống diệu kì cho nhân tâm - thế đạo.

Chúng sanh vô biên, pháp môn vô lượng. Sự tu tập của hành giả cũng phải trải qua bao A tăng kỳ kiếp mới thành tựu viên mãn. Trong suốt cuộc hành trình đạo hóa nhân sinh, hành giả đôi khi bỏ quên chính mình, bỏ quên hạt minh châu luôn tỏa sáng trong tâm thức. Ba tháng hạ chính là thời gian thích hợp để Tăng chúng ngồi lại kiểm thúc thân tâm trong mỗi ý tưởng hành động cụ thể. Tránh đi lại và cũng tạo cơ duyên cho chúng sanh cùng tịnh tu phước huệ. Có thể nói đây là giai đoạn tu nhân của Bồ Tát mang tâm hạnh vị tha vô ngã. Hoa sen trong biển lửa khi vươn ra khỏi đầm lầy thì sắc hương càng lan tỏa.

Trong cuộc hành trình tìm lại chính mình, mỗi bông hoa mùa hạhiện thân cho một giai đoạn tu chứng nơi tự tâm; Mỗi cánh sen vàng là một hoá thân Phật trụ trì Tam BảoThế gian. Mùi hương của loài hoa bất nhiễm lan xa như muốn góp sức mình trong công cuộc xây dựng một thế giới Cực Lạc an vui ngay hiện tại.

“Hương của hoa giải thoát,

ngược gió bay khắp nơi”.

Trong cảnh sanh diệt, chỉ có người biết trang trải cho đời bằng những giá trị thanh cao để trở thành những đoá sen vàng rực rỡ không bao giờ mất, không bao giờ tàn. Cành lá vô ưu vươn lên từ nơi mảnh đất bụi trần tăm tối. Trong chốn đầm lầy, những cánh hoa mùa hạ biết trang trải cho đời qua mùi hương bất diệt.

Những cánh hoa mùa hạ, những sắc màu luôn toả sáng trong mỗi mùa kiết hạ an cư. Rồi đây hương của người đức hạnh cũng theo chiều gió ngược bay xa.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2753)
Một người đàn ông ngã bệnh và tìm đến bác sĩ. Vị bác sĩ khám cho bệnh nhân này và sau đó viết cho anh ta một toa thuốc trên một mảnh giấy.
(Xem: 2535)
Vô ưu, Phạn ngữ Asoka, Hán ngữ phiên âm A du ca, A thúc ca, A thuật ca… dịch nghĩa là Vô ưu hoa, hoa không ưu tư phiền muộn.
(Xem: 2229)
Tu tâmtìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm.
(Xem: 2661)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2527)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2359)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2672)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2441)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3251)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2321)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2413)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2545)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2468)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2543)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2213)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2579)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3049)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2652)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2719)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 3002)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2563)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2600)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4102)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2775)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3069)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3315)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2291)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2502)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2803)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 3004)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2871)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2611)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2636)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3189)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2595)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2272)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2391)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2479)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2598)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2692)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2750)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3268)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2559)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2132)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2601)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2053)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2819)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2908)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2942)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2721)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant