Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đi tìm trách nhiệm

18 Tháng Hai 201200:00(Xem: 13491)
Đi tìm trách nhiệm


Đi tìm trách nhiệm

Thích Hạnh Tuệ

Đèn vụt tắt. Căn phòng tối om. Tôi lớ ngớ không biết chuyện gì đang xẩy ra, chẳng lẽ điện của chùa bị sự cố. Tôi thắp cây đèn sáp trên bàn Phật ở góc phòng rồi cầm một cây khác ra ngoài tìm hiểu nguyên nhân. Qua Mỹ hơn một năm, bây giờ tôi mới cảm giác của việc cúp điện. Tôi mở cửa nhìn sang nhà hàng xóm. Bà Wendy đang đứng ở ngoài sân lẩm bẩm chi đó với người trong nhà. Tôi nghe không rõ, nhưng chắc bà cũng đang bực bội. Nhà bà cũng tối om. Tôi nhẹ nhỏm, biết chắc lí do không phải nơi chùa.

Tôi trở lại phòng. Cây đèn sáp nhỏ, ánh lửa lập lòe không đủ sáng để tôi tiếp tục học. Tôi xếp lại mấy tờ giấy nháp vương vãi trên bàn rồi suy nghĩ vu vơ về trách nhiệmcon đường phía trước của mình.

***

Mỹ - nơi dung chứa tất cả. Tất cả ấy có nghĩa là tốt cũng có, xấu cũng có; giàu cũng có, nghèo cũng có; khôn cũng có, dại cũng có; văn minh cũng có, man rợ cũng có… Nơi mà hầu hết mọi chủng tộc, mọi sắc dân, mọi ngôn ngữ, mọi phong tục… đều có mặt. Sống trong một quốc gia hiệp chủng, đa văn hóa ấy, tôi bâng khuâng về trách nhiệmcon đường phía trước của mình, gọi một cách quen thuộc là “tương lai”. Con đường ấy không thơ mộng với hoa điệp vàng, với lá me bay. Con đường ấy chưa trở thành mòn bởi bước chân của những người đi trước. Thân phận của tôi, chiếc gạch nối của cũ và mới, của truyền thốnghiện đại, của phương Đông và phương Tây, của nền văn hóa trọng tình (mơ mộng) và nền văn hóa duy lý (thực dụng).

Tôi thấm thía mấy câu trong Qui Sơn Cảnh Sách: “Phù xuất gia giả, phát túc siêu phương, tâm hình dị tục, thiệu long thánh chủng, chấn nhiếp ma quân, dụng báo tứ ân, bạt tế tam hữu”. Tôi xác định được trách nhiệm của mình, job của mình; chính xác là: “Thầy Chùa” – ông Thầy ở Chùa! Nơi bảo tồn và truyền trao nền văn hóa Phật giáo, cả tinh thần lẫn vật chất. Nhưng tôi giới hạn trách nhiệm của mình không phải đối với lớp người U40 trở lên mà là lứa tuổi Teen trở xuống. Vì sao?

Khoảng năm triệu người Việt chọn đất nước thứ hai nào đó làm quê hương mới của mình. Trong đó hơn ba triệu người ra đi vì hoàn cảnh thăng trầm của vận nước. Những đứa trẻ theo cha mẹ chúng ra đi từ năm đó đến nay cũng đã ba – bốn chục tuổi rồi. Cho nên, ngôn ngữ cũng như tư tưởng của họ không khác nhiều trong quá trình hội nhập cuộc sống mới, so với người trong nước. Vì vậy, việc dạy Phật pháp cho những người này tương đối dễ dàng. Họ lãnh hội gần như trọn vẹn những điều mà các bậc Thầy Tổ đi trước truyền trao. Còn đối với lớp người con em của họ, thế hệ thứ 2 – 3, sinh ra và lớn lên nơi xứ người. Chúng chưa được nằm nôi, chưa được nghe bà kể chuyện, chưa được ngủ trong vòng tay ru hời của mẹ. Chúng chưa được biết những bài đồng dao con nít, chưa được ăn khoai – sắn độn cơm .v.v… Với chúng, tư tưởng, văn hóa và cả ngôn ngữ có thể nói khác hẳn với tầng lớp cha mẹ, ông bà. Cha mẹ của chúng đôi khi cố gắng lắm mới có thể giữ được tiếng nói tổ tiên (tiếng Việt) ở trong nhà, nhưng cũng không giữ được giọng nói vùng miền (Bắc, Trung, Nam). Điều đó không thể trách ai, mà chỉ tiếc – vì ngôn ngữ mất đi là mất cả một tâm hồn dân tộc! Thế hệ này là trách nhiệm của lớp tu sĩ trẻ như tôi trên con đườngtiếp dẫn hậu lai”. Mà con đường đó, bóng dáng của cái xưa cũ, điển chương (tầm chương trích cú): những thuật ngữ chuyên môn nhà Phật, cho đến những triết lý cao sâu đòi hỏi sự tư duy – suy nghiệm, đã mất đi chỗ đứng trong tâm khảm của chúng. Cho nên, tôi bâng khuâng vì trách nhiệm của mình đem Phật pháp đến với lớp tuổi Teen bây giờ và khi chúng lớn lên.

Vậy thì, làm thân sứ giả trẻ của Như Lai trong thời đại này và có trách nhiệm với thế hệ thứ 2 -3, tôi phải tự trang bị cho mình quá nhiều hành trang mới mong có thể bắt nhịp cầu “tre” cho chúng từ phương Tây tìm về lại phương Đông, từ hiện đại hiểu mạch nguồn truyền thống và từ một người bình thường tìm về với Phật. Trong những hành trang đó, ngôn ngữ - phương tiện của sự diễn đạt và thấu hiểu là vô cùng quan trọng. Ông bà mình dạy: “nhập gia tùy tục” hay “ở bầu thì tròn, ở ống thì dài”, tôi bắt buộc phải biết ngôn ngữ của chúng (không thể ngược lại) nếu có ý định giáo dục chúng. Nhưng chỉ ngôn ngữ không cũng chưa đủ và còn có nền văn hóa đa dạng và năng động của mảnh đất này, nơi chúng đã hấp thụ để lớn lên, tôi cũng cần phải biết. Và còn nữa, cung cách của một người mô phạm phương Đông, kiểu truyền đạt của người thầy giáo ở phương Tây; phấn trắng bảng đen được thay bằng máy chiếu để có âm thanh và ảnh động .v.v… Tất cả đó vừa là hành trang, vừa là thách thức, vừa là chướng ngại vật, lại vừa là mục tiêu trên con đường thực hiện hoài bão của những người tu sĩ trẻ thời nay trên xứ người.

ditimtrachnhiemTôi chợt nhớ đến hai câu thơ trong Hành Phương Nam của Nguyễn Bính: "Quê nhà xa lắc xa lơ đó, ngoảnh lại tha hồ mây trắng bay." Cứ để mặc cho mây trắng bay, cứ để mặc cho những nỗi niềm kia đau đáu, hay, tôi phải làm gì đó cho chính bản thân mình để rồi cống hiến lại cho dòng đời này tương tục. Tôi thử đi tìm trách nhiệm của mình, để biết mình đang đứng ở đâu và phỏng chừng bao giờ mình đến đích. Cũng có thể chẳng bao giờ đến được, vì không ai biết trước ngày mai, nhưng thà là như vậy, có chí hướnglý tưởng để dấn thân và phụng sự.

***

Cây đèn sáp cỏn con tội nghiệp. Nó cố sáng thêm tí nữa để rồi tịch diệt về với nguyên sơ. Nó để lại tấm thân tàn bệ rạc sau khi đã vét cạn sinh lực cống hiến cho đời. Nó đã đến đây và đã ra đi như vậy đó.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2761)
Một người đàn ông ngã bệnh và tìm đến bác sĩ. Vị bác sĩ khám cho bệnh nhân này và sau đó viết cho anh ta một toa thuốc trên một mảnh giấy.
(Xem: 2541)
Vô ưu, Phạn ngữ Asoka, Hán ngữ phiên âm A du ca, A thúc ca, A thuật ca… dịch nghĩa là Vô ưu hoa, hoa không ưu tư phiền muộn.
(Xem: 2235)
Tu tâmtìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm.
(Xem: 2665)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2539)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2371)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2678)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2448)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3261)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2331)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2420)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2555)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2475)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2555)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2221)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2586)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3057)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2654)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2722)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 3011)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2573)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2617)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4117)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2782)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3075)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3322)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2294)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2523)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2810)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 3014)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2877)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2624)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2638)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3194)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2598)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2279)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2395)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2490)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2605)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2696)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2757)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3277)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2566)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2134)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2604)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2058)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2832)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2923)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2956)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2727)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant