Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Gió Phương Xa

04 Tháng Tư 201200:00(Xem: 16530)
Gió Phương Xa


GIÓ PHƯƠNG XA

 

Năm nay, thời tiết tháng ba bỗng lạnh hơn những năm trước rất nhiều (hay tại mình già hơn năm trước mà cảm thấy thế?) Gió tháng ba này cũng lạ! chúng mang cái buốt giá căm căm của tháng ba miền Bắc Việt Nam, chứ không phải là gió xuân của Cali ấm áp Hoa Kỳ như thuở nào. Ai bảo đất trời tuần hoàn Xuân Hạ Thu Đông không có chợt nắng chợt mưa, như chúng sanh chợt cười, chợt khóc!

Nhưng có một sự việc vẫn đến đều đặn với chùa Phật Tổ, Long Beach, từ nhiều năm nay. Đó là, mỗi năm, trong khoảng thời gian này, Phái đoàn hoằng pháp Châu Âu do Hòa Thượng Thích Như Ðiển, phương trượng chùa Viên Giác Đức Quốc hướng dẫn, đều ưu ái dừng chân nơi ngôi chùa khiêm nhường tại thành phố Biển Dài, miền Nam California, để ban cho đại chúng hương vị pháp thực đậm đà của một giáo pháp, từng nuôi sống tâm linh chúng sanh gần hai mươi sáu thế kỷ qua.

Hòa Thượng trưởng đoàn Thích Như Ðiển bước vào chánh điện trong âm thanh rộn rã của ba hồi chuông trống Bát Nhã. Cùng bước theo ngài là những vị trưởng tử Như lai: TT Thích Nguyên Tạng (phó trụ trì Tu Viện Quảng Ðức, Melbourne, Úc Đại Lơi), TT Thích Thông Triết (trụ trì Thiền Viện Chánh Pháp, Oklahoma)), ĐĐ Thích Viên Giác (trụ trì Chùa Ðôn Hậu, Na Uy), ĐĐ Thích Hạnh Bảo (trụ trì Chùa Viên Ý, Rome, Ý Ðại Lợi), ĐĐ Thích Hạnh Đức (trụ trì Chùa Phật Ân, Minnesota ), NS Thích nữ Minh Huệ (Sacramento, Bắc Cali Hoa Kỳ). Chỉ thiếu hai vị: ĐĐ Thích Thánh Trí và ĐĐ Thích Hạnh Tuệ còn đang bận Phật sự tại San Diego sẽ có mặt trong buổi giảng ngày mai.

Hòa Thượng viện chủ chùa Phật Tổ Thích Thiện Long và đại chúng, chào mừng phái đoàn bằng niềm hoan hỷ lớn, bộc lộ từ những trái tim lớn mà tỏa ra hạnh phúc lớn. Không cần chi ngôn ngữ cho nhiều, khi ngôn ngữ cũng chỉ diễn tả giới hạn những cảm xúc vô hạn.

TT Thích Nguyên Tạng, phó trụ trì tu viện Quảng Đức, Úc Đại Lợi, luôn là phát ngôn viên của phái đoàn. Thượng Tọa cũng là linh hồn của trang nhà Quảng Đức, nơi có sức chứa như một thư viện Phật Giáo tầm vóc, cho những ai cần sưu tầm tài liệu. Thượng Tọa cũng là trưởng đoàn hành hương thăm Phật tích khắp nơi như Ấn Độ, Trung Hoa, Đài Loan …. Dưới sự hướng dẫn của Thượng Tọa thì những chuyến hành hương không phải là du lịch, mà đi để tìm chính mình qua lời Phật dạy. Làm sao mà tâm không trụ nơi thân, khi đứng trước mỗi Phật tích đều có thể vẳng lên âm thanh “Đi khắp đại địa, ghim cây kim xuống đâu cũng đều chạm xương da Như Lai”.

Trong bài pháp cô đọng mở đầu chương trình pháp thoại tại chùa Phật Tổ, Thượng Tọa giới thiệu 2 tác phẩmChết an lạc, tái sinh hoan hỷ” được HT Thích Như Điển và chính Thương Tọa, dịch từ nguyên bản Anh ngữ “Peaceful Death & Joyful Rebirth” của Đại Sư Tulku Thondrup. Đây là một đề tài mà không ai không muốn tìm hiểu. Tác phẩm thứ hai được giới thiệu đó là “ Chuyện Tình của Hòa Thượng Liên Hoa “ do HT Như Ðiển phóng tác từ câu chuyện có thật vào thời Vua Gia Long của đầu triều đại nhà Nguyễn. Hai cuốn sách này đã được nhị vị tác giả, dịch giả ký tặng đại chúng sau lễ khai mạc khóa tu.

 

Buổi chiều cùng ngày, đại chúng được nghe TT Thích Thông Triết giảng về đề tài “Căn bản của phiền não”. Mở đầu, thầy khảo bài ngay: -37 phẩm trợ đạo là những gì? Ai biết?

Học trò bị hỏi bất ngờ, sợ hãi nhìn nhau. Nhưng rồi cũng có một vài cánh tay rụt rè giơ lên:

-Dạ, tứ niệm xứ.

-Đúng ! Cho bác đây một tràng pháo tay. Gì nữa?

-Dạ, tứ chánh cần.

-Đúng luôn ! Cho anh đây một tràng pháo tay. Gì nữa?

-Dạ, Tứ diệu đế.

-Lại đúng ! Phật tử chùa Phật Tổ giỏi qua! Đếm xem, được bao nhiêu rồi. Ba lần bốn là mười hai …..

Hú hồn! Khi thầy đăng tòa, nhìn nhân dáng nghiêm túc, lại bị sát hạch bất ngờ, đại chúng tưởng buổi giảng này sẽ …. “nín thở qua sông!”. Ai dè, thầy “giơ cao, đánh khẽ” khiến trò được ôn lại bao nhiêu bài học quý giá từ 37 phẩm trợ đạo tới 8 tâm vương, 51 tâm sở, để nhận định được đâu là căn bản phiền não đã gây nên biết bao đau khổ.

 

Buổi giảng sáng thứ sáu 30 tháng 3,2012 do ĐĐ Thích Hạnh Bảo phụ trách. Hôm nay, gió lạnh hơn hôm qua. Có lẽ nhiều Phật tử trễ chuyến xe buýt sớm nên chưa đến kịp. Nhìn quanh đạo tràng, ĐĐ bảo:

-Thời nay, mọi sự đều chỉ có thể làm vào cuối tuần mới hội tụ đông đủ. Phật sanh ngày nào, cũng cuối tuần mới làm Lễ Phật Đản. Vu lan ngày nào, cũng cuối tuần mới làm Lễ Vu Lan.

Đó là một thực trạng của tùy thuận phương tiện.

Thầy chia sẻ những điều bình thường nhưng thực tế, mà nếu ít quan tâm, chúng ta dễ nhầm lẫn. Đó là thực chất vi tế giữa ăn chayăn mặn, rồi tới sự từ bi, giữa ái kiến từ bi của chúng sanhlòng từ bình đẳng của Chư Phật, rồi phụng dưỡng báo hiếu giữa chánh cầnbất chánh cần …

Thầy xác định là thầy chỉ “nói chuyện đạo” chứ không dám coi là thuyết pháp, vì pháp, theo thầy, mọi người đều tự có.

Đó là lời khiêm tốn của một vị thầy tự làm mờ “cái ta” để trở thành “cái chúng ta”. Quý thay!

 Buổi chiều cùng ngày, đại chúng được diện kiến ĐĐ Thích Viên Giác, chùa Ðôn Hậu, Na Uy. Đối với đa số Phật tử miền Nam cali, Hoa Kỳ, thì xứ Na Uy còn là một địa danh khá xa lạ. Vậy mà cũng có bước chân của hậu thân Tăng Đoàn Đức Thế Tôn đến đó từ nhiều thập niên qua.

Thầy chia sẻ, Na Uy là xứ lạnh, nhưng tình nồng. Những năm đầu, thầy chỉ ăn bánh mì, vì ít có chợ nào bán gạo, nói chi tới những đặc sản quê hương. Chính nơi xứ lạ, ít đồng hương đó, thầy đã có những cơ hội quý báu, giới thiệu với dân bản xứ về những nét đặc thù của Đạo Phật.

Khi thầy nói về hạnh khất thực, họ rất cảm động và ngưỡng phục. Một Đức Phật được người người tôn quý, dẫn đoàn tỳ kheo đầu trần, chân đất, lặng lẽ ôm bát đứng trước mỗi ngưỡng cửa, chờ bố thí chút thực phẩm. Hành động đó, hình ảnh đó, nào phải là nghèo đói xin ăn, mà là trải rộng lòng từ bi, tạo dịp cho chúng sanh biết bỏ chấp ngã và biết bố thí.

Chính sự cảm ứng kỳ diệu từ những bài pháp đơn sơ ban đầu này mà thầy tự tin, khởi xây chùa Ðôn Hậu để có nơi cho Phật tử nương tựa. Khi mới khởi công, thầy có chút lo lắng, nhưng thầy được Sư Phụ trấn an rằng:

-Đừng lo! Thầy cứ tụng kinh, gõ mõ, tiền sẽ từ mõ mà ra.

Quả thật, từ viên gạch đầu bằng gia tài thầy trò có bảy ngàn đô, những viên gạch khác cứ từ nơi này, nơi kia lăn tới. Gạch lăn tới đâu, xây tới đó. Long Thần Hộ Pháp gia trì thế nào, nhận thế nấy. Nay, ngôi chùa Ðôn Hậu đã hoàn tất qua dự án hai triệu đô.

Khi chia sẻ điều này, thầy muốn nhắn gửi một thông điệp, là người Phật tử phải có niềm tin nơi Tam Bảo. Cùng với tự lựctha lực nơi hộ pháp, chúng ta có thể thành tựu những điều xứng đáng.

Trước khi xuất gia, ĐĐ Thích Viên Giác là nhạc sỹ Phi Long, nên thầy kết thúc buổi giảng pháp bằng bản nhạc “Xuân Trong Ta” do chính thầy sáng tác.

 

Sáng thứ bảy 31 tháng 3, 2012, đại chúng chùa Phật Tổ có thời khóa tu Tịnh nghiệp thường lệ với tụng kinh A Di Đà, kinh hành, niệm Phật. Sau đó, chuông trống bát Nhã đã rộn rã ngân lên đón tiếp Ni Sư Minh Huệ, vị tỳ-kheo-ni duy nhất trong phái đoàn hoằng pháp Châu Âu từ bấy lâu nay.

Khi giới thiệu Ni Sư, HT viện chủ chùa Phật Tổ đã nhắc lại một điểm quan trọng khi xưa, là Đức Phật đã nhận thấy, trí tuệ không phân biệt nam nữ. Những gì vị tỳ-kheo làm được thì vị tỳ-kheo-ni cũng có thể làm được (NS đã đậu bằng Tiến Sỹ Phật Học bên Ấn Độ với đề tài luận án là Kinh Trung Bộ)

Hôm nay, NS giảng về Vô Thường.

Thời gian qua nhanh, vô thường lại không biết ập tới lúc nào! Chúng sanh thì luôn bị ngũ dục lôi cuốn khiến quên đi mỗi phút giây qua, mỗi đến gần sự chết! không tu tập, không tạo phước, không mở mang trí tuệ, lấy đâu hành trang thiện lành khi ra đi, để tới được thế giới an lạc.

Tiếc thay, chúng ta thường biết trên Lý, mà Sự lại chẳng chịu hành, nên khi vô thường tới, có chợt ngộ ra cũng đã muộn.

Ni Sư đan cử vị Đại Đế lừng danh bách chiến bách thắng, Alexander của Pháp Quốc, sau khi chinh phạt, trên đường ca khúc khải hoàn trở về quê hương, ông bỗng lâm bệnh nặng vì quá lạm dụng sức mình khi bôn ba chiến trận. Tự biết khó qua khỏi, ông gọi cận thần, dặn dò 3 điều:

1-Suốt dọc đường về quê, các lương y phải khiêng xác ông, chứ không được bỏ vào quan tài.

2-Rải hết vàng bạc châu báu của ông trên suốt chặng đường đi.

3-Về đến quê hương, khi làm lễ an táng, bỏ xác vào quan tài, nhưng phải để lộ hai bàn tay ra ngoài.

Trong đại chúng, nhiều người chưa biết về giai thoại này, nên lấy làm lạ, đều chăm chú lắng nghe. Ni sư chậm rãi, giải thích thông điệp của đại đế Alexander nhắn với thế gian, ở từng điểm:

Thứ nhất, các danh y phải khiêng xác ông suốt dọc đường về quê là để nói lên, cái chết chắc chắn sẽ bình đẳng đến với tất cả mọi người, không quyền uy, danh y nào có thể cứu được.

Thứ hai, rải hết của cải ông có trên suốt dọc đường để nói rằng, giầu sang quyền quý tới đâu, khi chết cũng không mang được gì.

Thứ ba, an táng với hai bàn tay trơ trụi, lộ ra ngoài để nói rằng, khi vào đời với hai bàn tay trắng thì lúc ra đi cũng chỉ là trắng đôi tay!

Ở những ngày cuối đời, kịp nhận ra lẽ vô thường như vậy, may ra sẽ giúp ông ra đi thanh thản.

Quyền lực, tiền tài, danh vọng đến như Đại Đế, khi vô thường tới, còn như vậy. Nếu so ra, chúng ta thật chẳng là gì, vậy khi ra đi, có gì mà tiếc nuối!

Như để làm nhẹ bớt “bóng ma vô thường”, ni-sư cất tiếng trong thanh, hát một bài, tặng đại chúng trước khi chấm dứt thời pháp.Hạnh phúc thay!

 

Buổi sáng cùng ngày, ĐĐ Hạnh Tuệ ban pháp với chủ đề Hộ niệm là một pháp tu”. HT viện chủ chùa Phật Tổ ân cần giới thiệu với đại chúng, đây là vị thầy trẻ, trí tuệ uyên thâm, đã tốt nghiệp cử nhân Phật Học.,(Ngồi sau nhà Tổ, Huệ Trân muốn chạy ra thưa thêm rằng, thầy còn là một “Ông Đồ” với những nét thư pháp như phượng múa rồng bay. Quý Phật tử đi dự Đại Lễ Phật Đản năm nay, sẽ được chứng kiến và có dịp “đặt hàng” với thầy)

Thầy nhận định một điều, nghe qua, khá mới mẻ, nhưng ngẫm ra thì, giáo pháp Như Lai đồng một vị mà thôi. Thầy nói, trong tám vạn bốn ngàn pháp môn, hộ niệm cũng là một pháp tu chân chính. Vì sao? Vì khi đi hộ niệm, tâm ta đã sẵn sàng thành khẩn, trí ta đã sẵn sàng thanh khiết, tuệ ta đã sẵn sàng tỏ ngời, mới mong có thể đủ năng lượng từ bi, trí tuệ, chiêu cảm cùng Chư Phật mà chuyển đạt những lời cầu nguyện thành hiện thực. Pháp tu nào mà không cần những điều kiện tín, hạnh, nguyện như thế!

Thầy ví Từ Bi như đất. Đất ôm ấp, dưỡng nuôi mọi hạt mầm để đủ duyên sẽ nở hoa kết trái, làm đẹp cho đời.

Một đạo tràng trang nghiêm thanh tịnh cũng vậy, đó là không gian an lạc, trong lành để bồi dưỡng tín tâm cho những ai đang “đốt đuốc mà đi” trên đường Trung Đạo.

Trước khi chấm dứt thời pháp, thầy dựa theo bản nhạc “Đưa em vào hạ”, mà đổi thành “Đưa mẹ thăm chùa” để hát tặng đại chúng.

(Vẫn ngồi sau nhà Tổ, vừa làm việc, vừa nghe pháp, Huệ Trân thầm nghĩ, muốn theo cung cách thân mật, thoải mái này, chắc các sư huynh của mình cũng nên dợt vài bài tủ, để khi có dịp chia sẻ ở đâu thì cũng kết thúc bằng lời ca tiếng hát cho vui vẻ cả làng! Mới khởi nghĩ thế, đã liên tưởng ngay, huynh Thường Giới, có thể sẽ gật gù, mỉm cười, huynh Thường Tín sẽ chắp tay “A Di Đà Phật”, còn huynh Thường Chơn thì trăm phần trăm sẽ là “không dám đâu!”)

 

Buổi chiều cùng ngày là đề tài mà không một ai không mong đạt tới. Đó là đề tài “Giải thoát khổ đau” do ĐĐ Thích Hạnh Đức chia sẻ.

Đại Đức còn rất trẻ mà giảng về một đề tài cam go, nên trong tương phản, cái đẹp tất hiển lộ. Như hoa sen thơm ngát giữa ao bùn.

ĐĐ nhắc 8 chữ, mà có lẽ không Phật tử nào không từng biết. Đó là: khổ đế, tập đế, diệt đếđạo đế.

Trong tứ đế này, khổ đau chính là khổ đế, đứng đầu.

Mà khổ đau có thực là khổ đau? Nếu không quán chiếu kỹ, có khi, khổ đau của người này lại là hạnh phúc của người kia. Tỷ như, người mắc bệnh cùi, hơ thân vào lửa, rồi gãi, đó là hạnh phúc. Nhưng người không mắc bệnh này mà bắt hơ lửa, rồi gãi, có lẽ không gì khổ hơn!

Vậy, là người tu Đạo Trí Tuệ, Giác ngộ, phải nhận diện, đâu là hạnh phúc tạm bợ, sẽ dẫn tới khổ đau, thì điều đó, chắc chắn không phải là hạnh phúc.

Nếu ta thường xuyên quán xét về tích-lũy-nghiệp và tập-quán-nghiệp, ta sẽ có nhiều cơ may tạo thêm nghiệp lành và xả bớt những tập quán không tốt.

Thầy ân cần nhắc nhở các Phật tử đạo tràng Tịnh Độ, chùa Phật Tổ, là phải hành trì đủ Tín, Nguyện, Hành, thì Đức Phật A Di Đà mới tiếp độ được. “A” nghĩa là Vô, là Vô Lượng Quang, Vô Lượng Thọ, Vô Lượng Công Đức. Chúng ta niệm A Di Đà Phật là để thể nhập vào thế giới Vô Lượng của ngài; chớ như kẻ bơi ngoài biển khơi, tuy biết cách bơi mà không biết sẽ bơi về đâu thì cứ mãi lênh đênh sóng nước. Phải muốn vào đất liền, mới về đất liền, phải nguyện về cõi Phật, mới về với Phật.

 

Sáng Chủ Nhật 1 tháng 4, 2012, sau thời khóa tu Tịnh Nghiệp thường xuyên của đạo tràng, là thời pháp cuối cùng của phái đoàn hoằng pháp Châu Âu, dành cho chùa Phật Tổ. Thời pháp cuối này, do chính Hòa Thượng Thích Như Ðiển, trưởng phái đoàn chia sẻ. Ngài là bậc trí tuệ, thông thạo nhiều ngoại ngữ nên việc hoằng pháp năm châu bốn biển đều hanh thông, dễ dàng.

Hòa Thượng bảo, tưởng không có chỗ đậu xe, vì trong ngoài đều chật kín. HT cảm thấy rất ấm lòng, là Phật pháp nơi đây đang hưng thịnh.

Thời pháp hôm nay, HT sẽ nói về thân trung ấm và việc đi đầu thai.

Là con Phật, chúng ta đều tin ở nhân quả. Những gì ta gieo đời này, khi ra đi, tự động nương theo nghiệp đó, không ai hứng chịu thế cho ai được. Mọi hành động, mọi ý nghĩ nào khởi lên, đều là những chủng tử gieo vào tâm thức, chờ đủ duyên sẽ nảy hạt, đâm chồi. Chúng không tự biến đi, nhưng chúng có thể bị chuyển hóa. Thí dụ, mười hạt bắp và một hạt lúa cùng gieo xuống vuông đất nhỏ, những hạt bắp kia sẽ lấn hạt lúa. Hai mươi hạt bắp cùng xuống đất với một hạt lúa thì cơ may cho hạt lúa nảy mầm lại ít hơn.

Suy như thế, nếu ta thường xuyên quan tâm, tạo thêm thiện nghiệp, xả bớt ác nghiệp thì giây phút ra đi, thân trung ấm sẽ theo hướng thiện mà đầu thai vào chốn lành. Ngược lại, khi ấy, nếu tâm thức ta ác nhiều, thiện ít, tất, ta sẽ theo hướng ác mà đi!

Là con Phật, chúng ta được Đức Phật xác quyết “Là Phật sẽ thành”, nhưng chớ quên, thành ở đây, không phải đương nhiên thành, mà thành hay bại còn do chúng ta biết phản quang tự kỷ, chuyên tâm tinh tấn tu hành để đạt tới hạnh phúc rốt ráo là ra khỏi sanh tử luôn hồi.

Hòa Thương cô đọng thời pháp qua lời dặn:

-Kinh A Di Đà thuộc về Hóa sanh. Quý Phật tử nơi đây tu Tịnh Độ, chỉ cần nhớ kinh A Di Đà bằng 2 chữ Hóa Sanh, sẽ được Phật A Di Đà hóa sanh, cho về nước Ngài. Bổ túc thêm Kinh Vô Lượng Thọ, chỉ cần nhớ 3 chữ: Bổn Nguyện Lực.

Hiểu tường tận 5 chữ đó, là đường đi sẽ tới.

 

Được biết, năm nay là năm cuối, phái đoàn đến Hoa Kỳ hoằng pháp. Những năm tới, đoàn hành giả trưởng Tử Như Lai vẫn kiên cường, dõng mãnh cất bước, nhưng sẽ là những châu khác, hướng khác, đó là Âu Châu, rồi Úc Châu, nơi bao người con Phật khát pháp mong chờ.

Dẫu biết thế, chúng con vẫn không khỏi bùi ngùi, luyến tiếc lúc chia tay.

Ngưỡng nguyện hồng ân Chư Phật mười phương luôn gia hộ quý ngài được pháp thể khinh an, tuệ đăng thường chiếu, cho đàn hậu học chúng con có nơi nương tựa.

 

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca mâu Ni Phật

Nam Mô Công Đức lâm Bồ Tát Ma ha tát


 Huệ Trân

Biển dài, 4/4/2012
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 595)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 781)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1103)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1268)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 997)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1341)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 791)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 763)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 808)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 823)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 803)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 790)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 948)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 835)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 988)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 1007)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 931)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 932)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 858)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 1015)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 956)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 897)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 995)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 910)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 851)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 958)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 885)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1144)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 916)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 1017)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1157)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1617)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1165)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1261)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1113)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 978)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 921)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 960)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 806)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1486)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1366)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1330)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1274)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1381)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1334)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1478)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1355)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1208)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1267)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1326)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant