Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Giải Thoát Thơ

13 Tháng Sáu 201300:00(Xem: 11011)
Giải Thoát Thơ


Giải Thoát Thơ


Trong sinh hoạt hàng ngày của đời sống con người, không chỉ làm việc để tạo nên của cải vật chất cung ứng cho đời sống. Cũng chưa phải ăn uống nghỉ ngơi và giải trí để giúp cho cơ thể được thoải mái, tinh thần được vui tươi mới gọi là hạnh phúc. Vì có nhiều người giàu sang tột đỉnh, quyền uy cao ngất mà họ vẫn cảm thấy đang thiếu thốn một thứ gì không thể xác định được. Vẫn có những điều khiến cho họ thấy đang thiếu vắng bóng dáng hạnh phúc. Cho nên muốn có một cuộc sống an vui, cần phải giải tỏa những nghi vấn, san bằng nghịch cảnh, dung hòa những định kiến, thì cuộc đời mới có thể dung thông. Nếu không thì cuộc sống sẽ bất an và tương lai vẫn trong vòng lẫn quẩn của tư duy mâu thuẩn không cùng. Nỗi thao thức ấy, chẳng thể đem đến cho chúng ta một nguồn sống hài hòa, vì biết tìm đâu ra suối nguồn diệu giác để tắm gội thân tâm, rửa sạch tấm thân vốn đã bị bụi hồng trần lấm lem nhơ nhuốc. Những điều thấy biết của con người vẫn còn giới hạn, chưa thể nào có thể giải đáp được những ưu tư, nghi vấn mà mỗi lúc cứ chập chùng ẩn hiện như những đợt sống trên biển cả mênh mông, muôn trùng bờ bến. Khó lấp, khó hàn gắn những ray rứt khôn nguôi trong lòng nhân thế.

 Vì vậycon người muốn tìm về nẽo đạo, để tạo cho mình một cuộc sống hạnh phúc an lạc. Tìm một món ăn tinh thần để cho cuộc đời đuợc thanh lương, thoải mái. Tinh thầnchức năng dẫn đường cho cuộc đi, mong ước một chốn đến không bị ngăn ngại bởi chướng duyên. Món ăn tinh thần nầy, ngoài đạo giải thoát còn có văn thơ là một giá trị không kém đạo giáo. Vì nền văn hóaphương tiện để hướng dẫn chúng ta bước vào nẽo đạo, đi đến mục đíchcon người muốn đạt đến. Hay nói khác là văn hóa cũng là phương tiện để đưa đạo vào đời, khiến cho nhân sinh có một hướng đi tốt đẹp hơn.

 Sự tương quan giữa văn họctôn giáo là một điều tự nhiên, như là phương tiện để giúp cho những kẻ lữ hành trên con đường vạn dặm. Như trong một tài liệu về lịch sử Phật giáo, một đoạn sách diễn tả lại rằng: “Sở dĩ mà Phật giáo du nhập vào Việt Nam một cách thuận lợi, và nhanh chóng có rất nhiều ngưòi yêu thích, là vì tinh thần Phật pháp có nhiều điểm trùng hợp với tình tự văn học dân gian. Ví dụ như trong đạo Phật có ngày lễ Vu lan báo hiếu, thì ngoài dân gian cũng có: … Một lòng thờ mẹ kính cha. Cho trọn chữ hiếu mới là đạo con. Hay Phật giáolòng từ bi, tính hỷ xã thì ngoài dân gian cũng có: … Bầu ơi thương lấy bí cùng. Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn.” …

 Hay những nghi vấn mà được giải đáp thỏa đáng, đúng với những trình độ khác nhau, nhưng cùng đồng hiểu như nhau đều là những đáp ứng thực tiển. Như một câu hỏi mà xưa nay vẫn làm thao thức của nhiều thức giả:

 -Chúng ta sinh ra và sẽ đi về đâu ?

 Và cũng may mắn thay câu hỏi nầy cũng đã được một vị Thiền sư khai thị:- “Nếu biết rằng trong hiện tại chúng ta đang đi đâu, thì sẽ biết tương lai chúng ta sẽ về đâu” ? Lời khai thị thật thâm thúythực tế biết bao. Vì đường đời thì trăm hướng, nếu bây giờ chúng ta chọn hướng nào, thì mai sau sẽ đi theo hướng ấy. Như người Phật tử bây giờ siêng năng đi chùa, tinh tấn tu hành, sẵn sàng dấn thân vào việc từ thiện, thì tương lai sẽ đưa chúng ta đi theo con đường thiện lành và sẽ dẫn đến bến bờ hạnh phúc. Còn ngược lại nếu bây giờ giải đải, không chọn cho mình một hướng đi, thì dĩ nhiên sẽ nằm lì hay đi về một hướng khác, mà hướng ấy như thế nào cũng còn tùy nhân duyên của từng người.

 Trong sinh hoạt dân gian, thơ văn cũng đóng góp một vai trò rất quan trọng, được thể hiện qua ca dao, tục ngữ là con thuyền chở đời qua sông. Vì bên nầy là thực tại lối mòn, mà bên kia là chân trời mơ uớc. Như lời một bài hát nào đó: … Bên kia sông có ánh mặt trời. Bên kia đồi cỏ hoa chen lối. Bên kia suối suối reo lạnh lùng. Bên kia núi núi mơ chập chùng. Là bài thơ toàn chữ hư vô...

 Văn học của Tôn giáo , thơ văn cũng đóng một vai trò rất quan trọng để chuyên chở muôn lòng trở về nhất quán. Nơi ấy chúng ta không còn mong ước sẽ đi về đâu nữa, vì là chốn tột cùng mơ ước của con người. Nơi ấy là nơi “ngã tướng bất sanh” thì còn chổ nào để ước mơ của chúng sinh về đậu ?

***

 Nhớ một lần tu học, nghe một vị thầy kể một giai thoại văn thơ thật tuyệt vời. Giai thoại nầy đã đưa thơ ra khỏi những đối đãi thị phi, không còn một ngăn cách giữa thiện ác, không còn những hoài nghi sai khác, không còn những chấp ngã đời thường. Trái lại thơ đã thăng hoa lên trăng sao vằng vặc, cho muôn đời ánh sáng mầu nhiệm kia chiếu rọi vào vô minh, xóa tan ngã chấp, giải tỏa những nghi vấn trùng trùng. Vì thơ đã cất cánh, thơ đã tung bay như muôn vàn hoa đốm hư không kết tụ. Thơ muôn đời được kết hương hoa dâng tặng. Thơ dâng tặng cho đời để làm hành trang, dùng phương tiện nầy trong việc tìm hướng đi cho cuộc đời. Là bức thông điệp truyền đi để báo hiệu cho biết một điều vô cùng huyền nhiệm. Khuyến cáo cho đời đừng đối đãi thị phi để thong dong cùng nhau bước đi về miền chân cảnh.

 Chuyện kể:- Ngày xưa có hai thầy kết thành huynh đệ, cùng nhau tu tập rất tinh cần. Người sư huynh có một cuộc sống ung dung tự tại nhờ kinh kệ đã nhuần, tương chao đã thấm cho nếp sống thanh cao có cơ phát triển cả thể xác lẫn tinh thần. Chốn tu hành cũng được thanh tịnh trang nghiêm, nên thiên nhiên đã dung thông, tâm tình đã thuần nhất một sắc màu giải thoát. Cuộc sống thong dong tự tại của vị thầy nầy đã toát ra một vẻ đẹp tinh khiết, qua một trí tuệ uyên thâm Phật pháp nhiệm mầu. Vị thầy ấy vốn đã có đầy đủ những hành trạng cần thiết, để du hóa cứu độ chúng sinh, không còn vướng mắc một mảy may nào hệ lụy. Vì chí nguyện tu hành đã thành đạt (tự giác giác tha, giác hạnh viên mãn) không còn hoài nghi, nên nhìn thế sự chẳng mảy may vướng bận. Lòng thanh thoát, ý chí kiên cường và cuộc đời vô ngã vô úy ấy đã thể hiện trên bước hoằng hóa của Người mong muốn cho chúng sinh được thâm nhập kinh tạng, trí tuệ như biển.

 Nhờ thâm nhập kinh tạng nên đã tạo cho Người một tâm hồn thơ rất phong phú. Nhờ kinh điển được chuyển dịch qua các thể văn vần, lối văn rất dễ dàng huân nhập vào lòng người. Như sương ngàn gió núi tưới tẩm cho cỏ cây hoa lá, cho bông hoa tô thắm thêm hương sắc. Thỉnh thoảng thầy cũng có làm thơ, tuy ý thơ thì thanh thoát, nhưng luật thơ còn ảnh hưởng vào thuật ngữ của kinh kệ công phu. Nên đều bị các huynh đệ chê thơ chỉ in như những bài kệ, những bài sám. Do đó mà thơ chưa thoát ra khỏi những khuôn mòn. Để thơ được bay bổng với trăng sao, thơ được thăng hoa với niềm rung cảm của thế nhân một cách tự nhiên mà không cần đến lý luận.

 Loại thơ nầy thì thú thực thầy chưa từng làm. Tuy nhiên nếu gặp một khung cảnh nào thuận duyên để cho thơ tung bay, thì lúc ấy thơ sẽ hiển hiện như bóng trăng vằng vặc, như giọt sương long lanh đang phản chiếu. Tất cả sẽ soi đến muôn trùng, tìm thấy chân nguyên.

 Nhiều lần người sư đệ thách thức sư huynh làm được một bài thơ cho nên thơ. Phải thơ mộng và quyến rũ như tình tự của thế nhân, như giấc mộng hoang đường, để làm cho nhiều người mê đắm, phải là thơ và rất thơ.

 Một hôm nhân dịp ngày lễ hội nguyên tiêu, tại chùa có rất nhiều thiện nam tín nữ đến viếng cảnh. Thật là cảnh dập dìu tài tử giai nhân, đang chập chờn như hư ảnh khiến cho cảnh chùa thanh vắng chợt lung linh một cảnh tượng lạ lùng, dưới bóng trăng như ảnh hiện lên cảnh tiên giới.

 Vị thầy liền ứng khẩu đọc:

 Long lanh như ánh trăng vàng

 Như Lai, Điều Ngự trên làn tóc em.

 Thật tuyệt vời làm sao vì chợt dưng mà thấy được bóng Như Lai, Điệu Ngự. Vì tinh thể của thơ đã được xuyên suốt qua một tâm hồn mênh mông và cái cảnh huyền diệu kia được cơ may ảo hoá, để ngẩu nhiên mà ngự, vô tình mà hiện.

 Long lanh

 Như ánh

 Trăng vàng

 Thử đọc một cách chậm rãi, ngắt quảng và xuống hàng như trên, để được nhìn lâu nhìn thấu suốt cái tính chất long lanh của hiện tượng. Một hiện tượng thật có thật không trong sự chuyển hóa của muôn trùng. Cho đầy đủ mọi yếu tố của bao la vũ trụ bát ngát hư không, trong một cuộc hội ngộ đầy những khuôn mặt hân hoan. Cho cuộc tương phùng được niêm hoa vi tiếu để lại cho đời những chuổi ngọc muôn màu ảo diệu. Một cảnh giới huy hoàng tráng lệ, mà đời thường khó bề thấu suốt, ít khi thấy được. Và đọc chậm rãi để như thấy bước thiền hành của hành giả đang cảm nhận từng nguồn an lạc, đang thấm nhuần trong từng bước tỉnh thức.

 Nhưng tiếc thay vừa mới nghe qua người sư đệ nầy đã thẳng thừng phản đối:

 -Sao huynh lại làm thơ tình? diễn tả thế giới đời thường tục lụy? Như Lai, Điệu Ngự là những bậc để cho người đời cung kính, lễ bái sao lại ở trên làn tóc em ? Thiếu nghiêm túc, không chính xác, thật không xứng đáng cho sư đệ tôn kính ! Tuy sở học của đệ chưa bằng huynh, chưa thấu đạt được lẽ sắc không, lý vô thường, nhưng khi đọc bài thơ trên của huynh chắc chắn nếu ai phân tích bài thơ, cũng sẽ tìm ra cái tinh thần thiếu trung thực, đã xem thường chư Phật của sư huynh.

 Vị sư huynh ôn tồn trả lời:

 -Trên làn tóc em ? nơi ấy là chốn giải thoát trên sự giải thoát, vì như Đức Phật cũng có dạy: Con người có khả năng thành Phật, tức là có khả năng giải thoát, và như vậy có phải là Như Lai đã giải thoát trên sự giải thoát rồi chăng ? Như hoa sen, từ trong bùn nhơ nước đọng, được vươn lên khỏi tầm ô uế ấy, nên người đời đã dùng hoa sen để tượng trưng cho sự giải thoát. Đức Phật và chư vị Bồ tát được ngồi trên hoa senbiểu tượng cho sự giải thoát. Phàm nghi người ta dùng con mắt thường để thấy, thì cái thấy ấy vẫn còn lẫn quẩn trong nhị nguyên đối đãi, và sự ấy cũng luân chuyển trong vòng sinh tử luân hồi, không bao giờ thoát ra khỏi.

 Muốn thoát thì phải học hỏi những phương pháp để có cái nhìn, suy nghĩ, lời nói cũng như việc làm đều chân chánh. Như trong Bát Chánh ĐạoĐức Thế Tôn đã dạy, được như vậy mới có thể đạt đến định và tuệ.

 Và ở đời việc gì cũng có lý sự viên dung. Có trong có ngoài, trong thì phải thanh tịnh tâm ý, để nhìn bên ngoài không bị hoàn cảnh cuốn hút theo. Như chùa chiền ngày xưa thì phong cảnh u nhã, thanh vắng nhờ vậy mà giữ được cho đạo tràng thanh tịnh. Nên đã giúp cho thiền sinh nhiều điều kiện thuận lợi để tu hành. Mặc dù thỉnh thoảng cũng có khách thập phương đến viếng chùa ngoạn cảnh, cúng dường cũng là việc thường tình. Nhưng không vì thế mà có thể cho rằng khách thập phương đến sẽ làm cho cảnh chùa mất đi vẻ trang nghiêm, hay làm vơi bớt lòng thanh tịnh của những vị tu hành đã đạt đạo.

 Cảnh thanh tịnh của đạo tràng, lòng thanh lương của vị Thiền Tăng xuyên qua những tâm hồn thành tín của khách hành hương, với những tấm lòng trong trắng, đang dâng lên Tam Bảo những lời nguyện thiết tha, như những đài hoa cúng dường. Chợt sư huynh thấy long lanh bóng Như Lai đang ngự trên tất cả và nở hào quang chiếu rọi, như ánh trăng vàng soi khắp thế gian. Sự hiện hữu nầy rồi có thường hay không, hay cũng chỉ là hình ảnh của Thiền sư Hương Hải đã diễn tả:

 Nhạn quá trường không

 Ảnh trầm hàn thủy…

 Còn lưu lại hay chỉ thoáng qua? Như bóng trăng vàng, làn mây xám, mọi thứ đều chuyển hoá khôn lường, biến dịch khôn tả.

 Hay như cảm nhận của cố thi sĩ Vũ Hoàng Chương, khi trẩy hội chùa Hương:

 Suối biếc chuyển lời kinh vọng khắp

 Bụi hồng theo ngọn gió tung hê

 Bổng dưng tìm thấy con người thật

 Của chính mình xưa trót lạc đề…

 Ngoại giới thanh tịnh giúp cho nội giới sáng suốt để chợt bừng lên cái thấy, cái biết chân thật mà trong thiền môn gọi là “Bản lai diện mục” cũng là một duyên lành vậy.

 Long lanh, cái ngữ nầy cũng vô cùng ảo hóa, sự biến thiên của hiện tượng đối với con mắt trần tục làm sao mà thấy? Một giọt sương đọng trên ngọn cỏ, lung linh qua ánh trăng vàng, ngời lên muôn màu là vẻ đẹp tuyệt vời, và còn diễn tả được tính sắc không, trong dòng kinh Bát nhã. Vì vẻ đẹp ấy sẽ không thường tại, không trường tồn theo triết lý duyên khởi.

 Nhưng qua ánh sáng lấp lánh còn đọng lại, vẫn thấy như những chứng tích của sự hiện hữu bóng trăng cũng diễn tả được tính bất nhị (không bất dị sắc) vì cái thấy biết của chúng taxuất phát từ ngủ uẩn, mà ngủ uẩn thì lại giai không. Cho nên muôn sự chỉ trùng trùng, khi cái nhận biết của con người trần tục vẫn nằm trong sự đối đãi phân biệt của nhị tướng. Và ánh trăng vàng muôn thuở vẫn còn đó hay không, hay cũng chỉ là biến thiên của tạo hoá, có rồi không? Như ánh trăng vàng hay là không như…?

 Và câu kế cũng hảy đọc tiếp một cách chậm rãi như trên:

 Như Lai, Điệu Ngự…

 Trên làn

 Tóc em.

 

 Trong sự cảm xúc của tâm bình đẳng, đã bừng lên trí tuệ siêu việt để được thấy bóng Như Lai, cũng là điều bất khả tư nghị. Thì đâu thể đem ra phân tích với lý trí tầm thường. Vì hiện tượng chúng ta thấy cũng vẫn chỉ là hiện tượng của trần gian muôn trùng. Dĩ nhiên mắt thường khó bề nhìn thấy. Quan niệm cao thấp, nhơ sạch có lẽ không dính dấp chi với cái “tâm vô trụ xứ”. Hay nói như Zarathustra: “Phải là đại hải thì mới có thể đổ vào lòng mình một dòng sống nhơ bẩn mà mình không đến nỗi phải chịu phận nhơ theo”. Thật thế, lòng bao dung, tính độ lượng mới có thể dung chứa tất cả, chứ như vị kỷ hẹp hòi thì chứa đựng được những gì ?

 Hiện tượng Như Lai đứng trên tòa sen, tượng trưng cho sự giải thoát. Thì Như lai trên làn tóc em, lại không thể gọi sự giải thoát trên sự giải thoát được hay sao? Không thể gọi đó là con đường đáo bĩ ngạn để cho tín nữ thiết lập hạnh nguyện giải thoát của đấng Như Lai ?

 Vì như Ngài Quán Tự Tại, khi soi thấy năm uẩn đều không có tự tánh, Ngài liền thoát khỏi mọi tai nạn khổ ách. (Trích Bát Nhã Tâm Kinh).

 Hay lời dạy của Đức Thế Tôn bằng một bài kệ rằng:

 Nhược dĩ sắc kiến ngã

 Dĩ âm thanh cầu ngã

 Thị nhơn hành tà đạo

 Bất năng kiến Như Lai

(Dùng sắc để thấy Phật, dùng âm thanh để cầu Phật , thì đó là tà đạo, không bao giờ thấy được Như Lai).

 Hay triết lý: Không cầu mà thấy, không mong mà đạt mới là cái thấy viên dung, vô ngại.

 Hai câu thơ của Vũ Hoàng Chương:

 Chữ bay từng cánh chim ngàn

 Mỗi câu là mỗi Niết bàn hóa thân.

 Chữ bay hay ý tưởng của thơ bay, hay từng cánh chim ngàn bay, để nối thành từng câu, xâu thành từng chuổi ngọc cho người đời trang sức ? Và có thể trang sức được hay không, vì thơ đã hóa thân thành mỗi Niết bàn?

 Cũng như chuổi ngọc nầy được xâu bằng những cảnh giới vi diệu, biến hiện thành hiện thực qua tuệ giác đạt thành. Làm quà tặng cho nhân gian, làm thắng duyên cho người đời vượt qua, vượt qua và thẳng tiến đến bến bờ diệu giác.

 Long lanh như ánh trăng vàng

 Như Lai, Điều Ngự trên làn tóc em

 Cảnh tuyệt vời ấy mấy ai nhìn thấy, mấy ai xuyên suốt được tư tưởng phi phàm của Thiền sư, hay của Thi nhân đã ngẫu nhiên phát hiện. Mà có lẽ không phải là ngẫu nhiên đâu, theo thiển nghĩ. Vì có đạt được một trí tuệ siêu nhiên mới thấy được cái tự nhiên, có lên trên cao, mới thấy được toàn thể vũ trụ. Chứ cứ luôn ôm hoài thành kiến của ếch ngồi đáy giếng, thì biết đến bao giờ… mới đến được với cảnh giới “Giải Thoát Thơ” ?

 Trần Đan Hà

Ý kiến bạn đọc
22 Tháng Sáu 201307:00
Khách
Chào anh Đan Hà. Anh viết bài này hay quá.Ý tưởng rất phong phú. Văn chương tuyệt vời.
Trần thị Nhật Hưng
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11125)
Theo bình chọn của tạp chí Forbes, gia tài của ông trị giá khoảng 7,6 tỷ đô la (USD). Ông còn là người chuyên làm từ thiện nhưng lại có một cuộc sống rất bình dị.
(Xem: 8843)
Khuyến khích mọi người trong gia đình ta thọ năm giới, thì ngày đó là ngày hạnh phúc nhất trong cuộc đời ta, vì gia đình ta sẽ được duy trì, và cuộc sống gia đình đơn giản...
(Xem: 10301)
Đức Đạt Lai Lạt Ma từng dạy rằng tiền bạc không mang lại hạnh phúc, vì hạnh phúc thuộc về lãnh vực tinh thần
(Xem: 11165)
Tất cả những lời giáo huấn của Đức Phật được hướng tới việc đạt đến giải thoát khỏi vòng sinh tử
(Xem: 11148)
Các con phải cố gắng niệm Phật, bởi vì công đức niệm Phật rất lớn. Đó chính là áo giáp an toàn nhất có thể che chở cho các con chứ không phải ba mẹ hay của cải vật chất.
(Xem: 10119)
... người ta có thể đoán chiếc thuyền con ấy chính là nhà của lão, vì lão phơi thuốc, xắc thuốc, nấu thuốc ngay trên đó.
(Xem: 11904)
Phái đoàn chúng tôi gồm 34 người đã thực hiện chuyến hành hương Hàn Quốc - Đài Loan - Singapore, dưới sự hướng dẫn của trưởng đoàn Thầy Hạnh Giới.
(Xem: 11695)
Chỉ riêng Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang, dù thịnh hay suy, tiếng chuông sớm khuya vẫn không hề gián đoạn, hay tắt lịm giữa đêm tối vô minh.
(Xem: 11743)
Trong cả thành phố này, anh chị chỉ có tôi là chỗ thân nhất, vừa là thầy vừa là bạn. Buổi sáng anh gọi phone bảo trưa nay đến đón tôi về nhà dùng cơm cho vui.
(Xem: 10226)
Hoàng tử Bồ-Đề-Đa-La thả lỏng giây cương. Con bạch mã thong dong bước qua cổng hoàng thành, đi về phía hoàng cung. Đám lính lệ cúi rạp, đỡ hoàng-tử xuống ngựa.
(Xem: 9525)
Cha mẹ chúng tôi thương yêu, kính thuận nhau, và cũng hết mực thương yêu con trẻ, không bao giờ có ý ngăn cản sự góp mặt chào đời của mỗi đứa chúng tôi trong gia đình ấy.
(Xem: 10374)
Thuở đó, tăng đoàn thường ba Y, một Bát, từng bước chân trần hoằng hóa đó đây, đêm nghỉ trong rừng, tìm gốc cây êm mát, gối đầu mà ngủ.
(Xem: 9838)
Tập quán lì xì của người Việt chúng ta thực sự bắt nguồn từ một truyền thống lâu đời của Trung Quốc...
(Xem: 11866)
Ta đưa đôi mắt thiền quán nhìn sâu vào danh tướng, để thấy rõ danh tướng có làm cho ai khổ đau không? Danh tướng không làm cho ai khổ đau cả, mà danh tướng cũng không làm cho ai hạnh phúc hết.
(Xem: 11553)
Như từ một đống hoa tươi, Lựa ra ghép lại cho đời tràng hoa, Nhiều tràng phô sắc mặn mà, Người đời cũng vậy khác xa đâu nào
(Xem: 10591)
Mỗi ngày khi vừa thức giấc, Hãy nghĩ rằng, May mắn thay hôm nay, Tôi đã thức dậy, Thấy mình vẫn còn sống, Vẫn giữ được sự sống quý giá của con người.
(Xem: 11907)
Khắp nơi trong cõi dương gian, Hận thù đâu thể xua tan hận thù, Chỉ tình thương với tâm từ, Làm tiêu oán hận, giải trừ hờn căm, Đó là định luật ngàn năm.
(Xem: 10328)
“Khi tôi trông thấy một con vật dường như ngu đần mà lại biết khóc, cặp mắt của nó còn lộ vẻ đầy hãi sợ và buồn khổ, tôi bỗng rùng mình!”
(Xem: 10552)
Cứ mỗi lần nhìn bức thư pháp nơi chánh điện chùa Phổ Từ, tôi lại nhớ đến Sư Ông. Không những qua hàng chữ mường tượng ra bóng dáng người mà trong nét bút màu mực lưu lại như còn văng vẳng lời nhắc nhở tràn đầy ưu ái của Sư Ông đối với tôi và mọi người.
(Xem: 10763)
Bài chuyển ngữ dưới đây được trích từ một quyển sách của nhà sư Thái Lan Ajahn Mun (1870-1949), mang tựa là Muttodaya (Un Coeur Libéré/A Heart Released/Con Tim Giải Thoát).
(Xem: 11589)
Bài chuyển ngữ dưới đây được trích từ một quyển sách mang tựa Con tim giải thoát (A Heart Released) của nhà sư Thái Lan Ajahn Mun (1870-1949).
(Xem: 12338)
Ngạn ngữ Tây phương nói: “ Cái Tôi là cái đáng ghét” ( Le moi est haissable). Mặc dù là một câu nói được nhiều người biết, nhưng đó mới chỉ là nhận xét hời hợt về cái gọi là Cái Tôi.
(Xem: 10195)
Cho, không phải chỉ là làm vui kẻ đón nhận; mà còn là một thái độ, một nghệ thuật sống ở đời để có hạnh phúc...
(Xem: 9829)
Khi đức Phật dạy về Khổ thánh đế, Ngài nói đến năm uẩn; Ngài muốn cho chúng ta biết và thấy năm uẩn...
(Xem: 10461)
... ngài Đạt Lai Lạt Ma đã bắt đầu một ngày của mình bằng việc lễ lạy. Từ tư thế đứng, ngài buông dài người ra sàn nhà, với chỉ một tấm đệm mỏng trải trên tấm ván đủ cho phần thân mình.
(Xem: 9693)
Tại một ngôi trường tiểu học trong một thị trấn nhỏ ở Hoa Kỳ hôm nay là ngày đầu tiên khai giảng cho năm học mới...
(Xem: 11324)
Nụ cười của Ngài thật là tinh tế. Thế nhưng tại sao Ngài lại mỉm cười? Có phải đấy là một thể dạng phúc hạnh mà Ngài cảm nhận được trong khi thiền định hay chăng?
(Xem: 9951)
Con người đau khổ bởi sinh già bệnh chết, tâm đau khổphiền não tham sân si, mạn, nghi, ác kiến.
(Xem: 12039)
Ngủ nghỉ mới thức dậy, xin nguyện cho chúng sanh, có trí giác hoàn toàn, nhìn rõ khắp mười phương...
(Xem: 9732)
Mãi cho đến mấy chục năm sau, Thầy mới tìm ra được hình ảnh của một vị Thầy đích thực, một vị Bổn Sư. Bổn Sư chỉ có nghĩa là "Thầy của tôi" thôi.
(Xem: 22064)
30 năm qua được coi là quá đủ cho một thế hệ tiếp nối. Nếu không được ghi lại, kể lại thì lớp người sau chắc chắn sẽ đi vào quên lãng hay hiểu một cách lờ mờ hoặc qua trung gian một người khác kể...
(Xem: 10263)
Thi phẩm “Hạt Cát Mịn” như bản tóm lược, hay nói khác thì đây là công trình “Thi Hóa Duy Thức Học” để làm tài liệu tu học. Một môn học quan trọng bậc nhất đối với người học Phật.
(Xem: 9531)
Gió mùa thu năm nay, trở nên khô khốc, ảnh hưởng bởi nạn hạn hán trầm trọng nhất trong nhiều thập kỷ qua ở xứ này.
(Xem: 10279)
Đức Phật luôn gợi nhắc cho chúng ta rằng mỗi người chúng ta đều sở hữu các khả năng và phẩm chất tốt đẹp, cần phải biết vận dụng và phát huy để làm cho cuộc sống trở nên giàu sang hiền thiện...
(Xem: 16762)
Đạo sư nói: "Tôi cũng là một người du lịch qua cuộc đời này nên không mang theo đồ đạc gì nhiều".
(Xem: 14375)
“Mùa Xuân bỏ vào suối chơi, Nghe chim hát núi gọi trời xuống hoa, Múc bình nước mát về qua, Ghé thôn mai nọ, hỏi trà mạn xưa”
(Xem: 10328)
Người tụng kinh lâu ngày sẽ hiểu ý kinh, Người niệm Phật lâu ngày sẽ thấy cảnh Phật...
(Xem: 9305)
Triều Nguyên sinh năm 1953 tại Đại Lộc, Quảng Nam, bên bến sông Thu Bồn lồng lộng gió nắng, ngan ngát hương đồng cỏ nội.
(Xem: 9386)
“Khi một ý xấu vừa manh nha, biết ngay tai họa của nó, ta liền giữ chánh niệm như cây bám chặt vào đất”.
(Xem: 13117)
Phật giáo đã có ít nhất 2500 năm lịch sử; và có lẽ, cũng đã có chừng ấy lần các thế hệ Phật giáo đồ xao lòng nhớ lại câu chuyện Phật dự hứa ngày viên tịch, báo trước giây phút bỏ lại trần gian.
(Xem: 10957)
Nói đến mùa thu, người ta nghĩ ngay đến lá vàng. Trên cây là những tán lá vàng rợp. Dưới đất là những thảm lá vàng, trải lấp cả lối đi.
(Xem: 12489)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã có những lời dạy thật chí thiết về con người và sự vật, cảnh giớicõi nầy hay những cõi khác.
(Xem: 10950)
Shunryu Susuki Đại sư (1904-1971) là người sáng lập Trung tâm Thiền San Francisco và là một khuôn mặt chủ chốt trong việc truyền bá đạo Phật sang phương Tây.
(Xem: 13124)
Cuối tuần qua, tại Trại Huấn luyện Huyền Trang V ở Hayward, CA. Vừa lắng nghe và thông dịch lại cho các Trại sinh không hiểu tiếng Việt qua đề tài Thấu đáo về Hiện tình Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất.
(Xem: 11609)
Phật ngồi đó, tiếp tục thiền định với ánh mắt từ bi hướng về những người đang thảnh thơi thưởng thức một tách cà phê ấm hoặc bận chăm chú xem màn ảnh của điện thoại...
(Xem: 9930)
Trong khuôn viên khu nhà tập thể của quân đội, xe Bus của từng đơn vị lần lượt chuyển bánh rời khỏi vùng Fribourg vào sáng ngày cuối khóa tu học
(Xem: 12984)
Tường thuật lễ Kỷ niệm 30 năm thành lập chùa Bảo Quang và Đại Lễ Vu Lan Báo Hiếu PL 2558
(Xem: 11472)
Suốt bãi biển dài rộng, không ai mong đợi một cái gì trường cửu. Tất cả đều tạm bợ, có đó, rồi để cho sóng vô tình cuốn đi...
(Xem: 13198)
Nó từng đã chứng kiến không biết bao nhiêu cuộc chuyện trò đối đáp đùa giỡn của chúng tôi quanh chiếc bàn này - vui có, buồn có, thương yêu, giận lẫy cũng có.
(Xem: 12732)
Thế giới của chúng ta sẽ hạnh phúc biết bao nếu mỗi người không chỉ chăm lo về lợi ích riêng của mình mà còn chăm lo về lợi ích của người khác nữa.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant