Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Nhớ Mẹ

06 Tháng Tám 201300:00(Xem: 13271)
Nhớ Mẹ


Nhớ Mẹ


thuong-qua


Thân như cánh nhạn lạc bầy

Chợt vàng thu chớm nhớ ngày Vu Lan

Nhớ ngài Đại Hiếu Mục Liên

Công ơn của Mẹ lời nguyền xin dâng !

 Thi nhân nhớ Mẹ thì họ làm thơ, để giải bày tâm sự, hầu vơi bớt nỗi niềm! Vì thơ là tiếng lòng rung lên từ nội tâm hòa nhập và dung thông với ngoại cảnh, được cô đọng lại bằng ngôn ngữ để diễn tả tâm sự của mình; cùng san sẻ với tha nhân những hoài cảm, từ lâu chất chứa trong lòng nhưng chưa có cơ hội để khơi lại niềm xưa, thức lay bóng nhớ…

 Nhớ Mẹ (*) cũng là tiếng lòng ấy, nhưng được thể hiện bằng cảm xúc chân thành nhất. Chính là lúc thơ đã khai mở đến một thế giới dịu dàng và ngọt ngào như hương hoa, điểm tô cho đời thêm hạnh phúc an vui. Với hy vọng sẽ làm vơi đi những băn khoăn, khắc khoải. Mà hiện tại là cả những mất mát, sầu đau khiến cho tâm thức của khách ly hương nhiều phen phải bùi ngùi rơi lệ. Trước tình cảnh ấy, ai lại không cảm thấy nỗi bơ vơ vì thiếu mẹ…

 Vì tình mẹ là nhựa sống cho đời, là sương chiều nắng sớm tưới tẩm cho cỏ cây xanh tươi bốn mùa. Vì thế, nên tình mẹ lại giản dị như những tấm lòng chất phác của người nông dân nơi thôn dã; nơi có giây bí giàn bầu quanh năm vẫn cho hoa kết trái. Nơi ấy mẹ đã giải dầu mưa nắng, mẹ đã vun bón từng bông mướp nụ cà. Hình ảnh của mẹ đã hòa chung với vườn rau xanh tốt, khóm cải lên bông. Nhưng tình mẹ cũng đã gắn liền với con người, như chim liền cánh, như cây liền cành. Vì vậy mà tình mẹ là nhu cầu cần thiết cho đời sống của con người. Nên dĩ nhiên lòng yêu thương, và nỗi nhớ nhung về mẹ mổi khi thiếu vắng, là điều tất nhiên phải có. Không một ai có thể sống một cách thanh thản, trong một thế giới xa lạ, thiếu vắng người thân mà không khỏi chạnh lòng, mỗi khi đông về hay hạ tới. Sự vắng bóng của hình ảnh quê hương, tuy có nhớ nhung nhưng không ray rứt bằng thiếu vắng tình người, nhất là hình bóng người mẹ hiền…

 Trong tất cả những áng thơ văn viết về mẹ, thi nhân đã đi chung cùng hòa vào nỗi niềm nhớ mẹ; để cho tiếng lòng được rung lên thành tiết điệu. Và, tiết điệu nầy sẽ là tiếng lòng muôn thu, kể cả người thưởng lãm cũng hòa cùng để chắp cánh cho thơ bay về miền chân cảnh, nơi ấy không còn hận thùđố kỵ; không còn một biên giới phân chia, vì thế giới ấy đã hòa chung với tấm lòng yêu thương của tình mẹ. Nên tình mẹ vẫn luôn đọng lại trong tâm tư nhiều người; khi cùng chung một tâm trạng giữa vời, một hiện tượng ngăn cách. Mà không còn hy vọng ngày trở về, hay ước mong hạnh ngộ…

Trong bối cảnh hư thực hôm nay, nơi con người đang làm thân lưu lạc, cố gắng hòa nhập với hiện tại để sống còn. Nhưng không khỏi phân vân trước nỗi lòng trắc ẩn bởi nhớ nhung, thương tiếc! Để tháo gỡ những ray rứt của phôi pha, xao xuyến trước cảnh vật; cho cõi lòng được an nhiên trong cuộc sống. Bằng cách tìm lại chút hơi hướm của tình mẹ, hầu sưởi ấm quạnh hiu, vơi đi niềm lạ…

 Nhân ngày hội Vu Lan, xin đọc lại bài thơ "Nhớ Mẹ" của Ngốc Tử (bút hiệu của Hòa Thượng Thích Chơn Điền), như một giao cảm thiết tha giữa những tha nhân đang tìm về nguồn suối để tắm mát cuộc đời. Vì ngày lễ Vu Lan còn gọi là mùa Báo Hiếu, nên Nhớ Mẹ cũng là một trong những hình thức trân trọngbiết ơn đối với bậc sanh thành dưỡng dục; như việc lễ lạy cúng kiến đối với ông bà tổ tiên vậy.

 Thi nhân đã cùng một tâm cảnh chung với nhiều người tha hương; cũng như nỗi niềm của những người không còn mẹ, nên đã gợi lại một tâm trạng nhớ nhung rất tha thiết. Bằng ngôn ngữ giản dị, bằng tư tưởng bình dân, bằng tấm lòng chân thành nhưng đã diễn tả tuyệt vời tình tự của người mẹ hiền đối với đàn con dại. Còn sót đọng lại trong lòng người thưởng lãm; cũng như là một đồng vọng cho mai sau cái tình tự thân yêu của nhân loại. Và cũng chính vì mẹ không còn, nên lòng con không thể phôi phai niềm nhớ! Cảnh gợi nên tình, tình hòa với cảnh thức lay nỗi niềm, cùng sự cảm nhận như đang chung hòa với tâm sự, đã dẫn dắt thi nhân dần về nẻo nhớ:

 Nhìn liễu rủ chứa chan giọt lệ

 Mình bơ vơ nghe dế nỉ non

 Bơ vơ vì Mẹ không còn !

 Từ dung trước án nét son tỏa mờ

 Bóng liễu rũ thường khơi gợi cho chúng ta một hình ảnh u buồn! Nỗi buồn dầu chỉ phảng phất nhẹ nhàng thôi, nhưng nhiều khi cũng làm cho lòng người chùng xuống. Vì cảnh biệt ly đã đành mà còn chứa chan nhiều hệ lụy, cho nên từ đó cảm thấy cuộc đời bơ vơ. Rồi nhìn lại từ dung của mẹ trước án, thì nỗi niềm lại càng tăng thêm vị mặn. Nước mắt đã làm cho cảm xúc nhạt mờ, lung lay ánh nến như hư ảo cuộc đời. Nên chỉ thấy hình ảnh của mẹ còn lại những nét tỏa mờ, linh lung bóng nhớ.

 Rồi thi nhân lật lại nhật ký, thấy vần thơ viết cho mẹ bị bỏ dở. Vì nơi trang đời chưa viết ấy chính là tiếng nấc ngẹn ngào, tiếng lòng quặn thắt đã cản ngăn dòng tư tưởng. Khi nhìn lại tất cả những kỷ vật của mẹ còn đây, hình bóng mẹ còn đó, sao mẹ lại nỡ ra đi ? Đấy là câu hỏi của biết bao nhiêu người cùng chung niềm đau mất mẹ!

 Nhìn lại vườn rau ngày xưa mẹ đã chăm bón, nhưng bây giờ cỏ hoang đã mọc đầy; và líp trầu của mẹ đã tàn đi hai phần. Ôi phải chăng khi người con mất mẹ, là thấy cuộc đời tang thương đến cả đất trời, cỏ cây? Và nhìn lại tấm thân côi cút của mình, như cảm nhận nỗi niềm bất hạnh đang ngập tràn và dâng lên như mưa lũ.

 Và chỉ biết hỏi cao xanh bày chi câu tạo hóa, để cuộc nầy phải trở thành bể cả nương dâu, cảnh tang tóc đau sầu? Nghĩ về mẹ bây giờ lạnh lẽo đơn côi, khiến lòng con cũng ưu sầu như ngày đông tháng giá. Nỗi đau sầu làm lòng luyến tiếc đến tiếng mẹ ngày xưa! Tiếng êm êm khe khẻ ngọt ngào ấy, như còn đồng vọng trong tâm tư của những đứa con lạc ngoài ngàn dặm:

 

 Còn đâu tiếng "con ơi" của Mẹ

 Tiếng êm êm khe khẻ ngọt ngào

 “Áo ấm con hảy mặc vào

 Mùa đông gió lạnh thấm vào khổ thân”

 Tiếng "con ơi" là tiếng gọi chung của tất cả những người Mẹ Việt Nam, tiếng gọi ấy thật là "...êm êm khe khẽ ngọt ngào" biết bao! Tuy nhiên với tiếng gọi ấy không thôi, thì vẫn chưa đủ để cho con ghi nhớ. Vì sau đó với lời mẹ dặn con kèm theo: (áo ấm con hãy mặc vào)... kẻo mưa rát gió lạnh là gợi thêm; nhắc lại tấm lòng của mẹ đối với con, thật luôn thương yêu nồng ấm...

 “Áo ấm con hãy mặc vào

Mùa đông gió lạnh thấm vào khổ thân” 

 Không có tấm lòng nào ngoài mẹ mà có thể lo cho con đến thế! Luôn nhắc nhở con từng ly từng tí, một việc nhỏ nhiệm nhất mẹ cũng nghĩ đến và lo lắng cho con, thật bao la từ ái.

 Đến khi thấy con hư hỏng, khiến mẹ không bằng lòng, đáng lý phải trị tội đích đáng mới hy vọng con sẽ bỏ đi những thói hư tật xấu, nhưng rồi mẹ cũng chỉ mắng yêu:

 Rồi tiếng mắng “thằng bần” của Mẹ

 “Học thì lười, nghịch kẻ nào hơn ?”

 Tiếng mắng ấy nghe ra thật dễ thương biết mấy, như lời âu yếm tràn đầy lòng yêu thương của mẹ. Như là một phương tiện của mẹ để giáo dục cho con, vì khi con không biết đến những lỗi lầm, cứ cho đấy là đúng. Chỉ có mẹ đã từng trải việc đời, nên mẹ mới thấy được lỗi lầm của con. Cho nên tiếng mắng ấy là dư âm muôn đời, là tiếng lòng của mẹ chỉ biết hướng dẫn cho con trở nên người toàn thiện. Ôi tiếng lòng ấy như thể tâm hoa mầu nhiệm, đã khuyến cải cho con biết được việc trung, ý chánh (chớ lười, đừng nghịch).

 Như ngày xưa đức Phật sau khi thành đạo Chánh Đẳng Chánh Giác, Ngài tỏ lòng muốn giáo hóa chúng sinh, muốn dùng phương tiện “Vô lượng nghĩa xứ tam muội”, như phóng bạch hào quang minh hiện chơn cảnh diệu minh ý muốn chúng hội đương cơ, hiện tiền mục kích, khế ngộ biểu tượng chân thuyên, khỏi cần phải nói phô bày vẽ. Nhưng ngặt vì (chúng sinh) cơ liệt, mắt chậm, trí mờ, không thấu được đạo tịch diệt ly ngôn, chẳng đạt được thể tánh chơn vô niệm, nên đức Phật từ tam muội dậy, lại phải dùng lời nói phô bày, tự tán tự dương, trước khích động sau chỉ bày, mở mối tri kiến, gọi đó là phương tiện, vì phàm hể xen vào vòng nói năng tức là phương tiện vậy. (Trích kinh Pháp Hoa, phần khai thị Phật Tri Kiến, phẩm Phương tiện. Dịch giả HT Thích Trí Tịnh).

 Thế cho nên tiếng mẹ gọi con, tiếng mẹ mắng con... cũng đều là phương tiện để thức lay lòng mê trí ám của con, mong cho con hiểu biết chân lý, trở về với lòng mẹ để thấy như cái bao la của vũ trụ, với lòng khoan dung độ lượng:

 Nhớ khi con giận, con hờn

 Mẹ lau nước mắt cho con, Mẹ cười

 Trách con không ngoan để chỉ bày cái sai trái của con, nhưng khi thấy con hờn giận thì mẹ lại lau nước mắt cho con rồi mẹ cười! Cử chỉ "... lau nước mắt cho con, mẹ cười" ấy có phải là hành động diễn tả tấm lòng yêu thương của mẹ đó chăng? Và nụ cười của mẹ cũng là phương tiện để xoa dịu tạm thời cho con; để gởi đến cho con bức thông điệp của mẹ, đó là tấm lòng tha thứ:

 Cười tha thứ những lời con hỗn

 “Lớn rồi nghe, hư đốn thế sao ? 

 Tha thứ nhưng mẹ vẫn không quên bổn phận giáo dục, để hướng dẫn con thoát khỏi hư đốn, vượt được hèn mọn. Vì con đã lớn rồi, hảy theo đòi kinh sử, để lập hạnh sống một cuộc đời cao quý, thánh thiện.

 Đến khi khôn lớn, mới thấm thía những lời khuyên của mẹ, mới thèm nghe tiếng mẹ, dù là tiếng la rầy. Và cũng đến lúc khôn lớn mới thấy được công lao khó nhọc của mẹ nuôi con:

 Mẹ ơi ! Con nhớ hôm nào

 Con đau mà Mẹ tổn hao thân gầy ! 

 Ôi còn khó nhọc nào hơn của một cuộc đời làm mẹ: Với chín tháng cưu mang ba năm nhủ bộ, với bên ướt mẹ nằm bên ráo con lăn, tất cả cũng chỉ mong cho con chóng lớn, nên người...

 Đến khi thấm nhuần được ân đức của mẹ rồi, lúc ấy mới hiểu được lòng nhớ mẹ là một nhu cầu cần thiết để chửa cái bệnh tương tư, nên niềm nhớ đôi lúc cũng làm cho con phải thành bệnh, thành ốm:

 Mẹ ơi ! Con ốm rồi đây

 Thèm nghe tiếng Mẹ la rầy bên tai 

 Đến lúc nầy thì tiếng la rầy của mẹ đã trở thành thần dược, để chửa cái tâm bệnh của con bây giờ; vì tâm bệnh ấy phát xuất từ nguyên nhân của nỗi nhớ!

 Nên làm sao con quên được những lời từ ái của mẹ, những lời dặn dò khuyên bảo ấy:

 “Áo sứt nút không cài kẻo gió

 Cháo nguội rồi, nằm đó sao con ?” 

 Con trẻ nhiều lúc không biết giữ gìn sức khỏe; không biết trau dồi bản thân, nên mẹ nhắc nhở là chuyện thường tình. Nhưng con không biết lấy làm kinh nghiệm cho đời sống; thế rồi lúc bệnh mà vẫn không biết lo, còn chê thứ nầy thứ nọ. Nên lời nhắc nhỡ của mẹ qua hai câu thơ trên đây thật thân thiết và chu đáo biết bao. Chứng tỏ một nỗi lòng bao dung, độ lượng mà bất cứ người mẹ nào cũng đều thể hiện với con.

 Cảm niệm tình mẹ lúc còn sinh thời, thường ít khi sâu đậm bằng lúc mẹ đã quá vãng; vì ai cũng đang được mẹ lo lắng cho mình. Như khi chúng ta đang sống trong cảnh an vui, thì có mấy ai cảm nhận được đấy là cuộc sống hạnh phúc? Và, có ai nghĩ rằng một ngày nào đó mẹ sẽ ra đi vỉnh viễn! Nhưng khi chạm phải thực tế mới thấy một sự mất mát quá lớn lao; vì trên cõi đời nầy không còn bảo vật nào trân quý bằng tình mẹ cả:

 Lúc còn Mẹ, con còn tất cả

 Mẹ đi rồi, tất cả cùng đi !

 Vô thường đến thế thì biết sao? Lúc còn mẹ là con còn tất cả, vì mẹ là nguồn suối mát của đời con, bây giờ mất mẹ con biết lấy gì để bám víu, để được sống hạnh phúc như những ngày xưa còn mẹ:

 Mẹ ơi ! Con chẳng còn gì

 Bơ vơ đến cả khi đi, lúc về.

 Cảm niệm hay ngợi ca về tình mẹ của thi nhân, cũng như đối với người người đồng cảm, đều là một nguồn cảm tuyệt vời như dòng suối mát ngọt ngào, như hương hoa của mùa xuân khoe hương sắc. Cho nên, nếu không có những tâm hồn thi nhân, thì có lẽ tình mẹ sẽ chìm vào u tối vì thiếu những hương lòng dâng tặng. Vì trong những đóa hoa dâng mẹ, bông hoa nào cũng đẹp, cũng thơm hương. Mùi hương của hoa đã chuyền những năng lực qua hồn thi nhân, làm tăng trưởng tấm lòng thành tín của con đối với tình mẹ. Chứng tỏ một hiển nhiên là thi nhân đã để lại cho hậu thế "một tấm lòng", tấm lòng của thi nhân là Quê hương và Mẹ như một bóng mát che đời, một suối nguồn vi diệu đã vun tưới cho những hạt giống hạnh phúc được đơm hoa kết trái, cho thế hệ cháu con thừa hưởng.

 Cho nên mỗi lần nhắc đến mẹ là nhắc lại tấm lòng của mẹ ngày xưa, khi mới sinh con mẹ đã phải chịu nhiều khó nhọc. Nào làm lụng vất vả để có cái ăn, cái mặc. Nào cho con bú mớm nâng niu, lo cho con những phút giây ấm lạnh, mỗi lần sổ mủi nhức đầu. Khi lớn lên một chút thì phải lo cho con ăn học, để khỏi thua sút bạn bè. Nhưng rồi đến tuổi trưởng thành, thì con vẫn chưa làm được một việc gì để bù đắp cho công ơn của mẹ. Chưa một ngày phụng dưỡng cha mẹ, vì lúc nầy bóng mát của cha mẹ vẫn còn che chở cho con, vậy mà con đã không nghĩ đến. Thật vô tình làm sao đối với những tháng ngày hạnh phúc, để rồi đến khi tan tác, lúc chia ly mới thấy được thì đã quá muộn màng! Không còn một hy vọng nào kiếm tìm lại một khung trời cũ, một bóng hình xưa để nương náu, để chở che cho bóng dáng hạnh phúc vẫn còn đắp đầy trong tấm lòng hoài niệm

 Thế cho nên, giờ đây nơi xa cách nghìn trùng, nơi cõi người xa lạ con chỉ còn lại nỗi niềm bơ vơ trống vắng, nỗi quạnh hiu trên hun hút đường dài! Thì cuộc đời nầy còn gì ý nghĩa, còn gì để ước mơ cho chặng dài lẽ bóng. Khi con vẫn tiếp tục đi theo những bước chân vô vọng! Để rồi trong cuộc hành trình tìm về cội nguồn và quê hương vẫn thăm thẳm mù khơi nên mỗi khi nhìn lại bóng hình mẹ, con chỉ biết thốt lên lời :

-Con "Nhớ Mẹ" lắm... Mẹ ơi !

 Trần Đan Hà

_______________________________

(*) Trích toàn bài thơ Nhớ Mẹ trong Thi phẩm Góp Nhặt Lá Vàng của tác giả Ngốc Tử.


Nhớ Mẹ 

 

Nhìn liễu rủ chứa chan giọt lệ

Mình bơ vơ nghe dế nỉ non

Bơ vơ vì Mẹ chẳng còn!

Từ dung trước án nét son tỏ mờ

 

Lật nhật ký, vần thơ bỏ dở

Áo còn đây, Mẹ nỡ ra đi!

Vườn hoa cỏ mọc xanh rì

Líp trầu của Mẹ tàn đi hai phần.

 

Cao xanh hỡi, đòn cân tạo hóa!

Gây chi trò bể cả nương dâu

Gây chi tang tóc đau sầu

Mẹ ta lạnh lẽo, ta sầu đơn côi

 

Còn đâu tiếng "con ơi" của Mẹ

Tiếng êm êm khe khẽ ngọt ngào

"Áo ấm con hãy mặc vào

Mùa đông gió lạnh thấm vào khổ thân"

 

Rồi tiếng mắng "thằng bần" của Mẹ

"Học thì lười, nghịch kẻ nào hơn ?"

Nhớ khi con giận, con hờn

Mẹ lau nước mắt cho con, Mẹ cười

 

Cười tha thứ những lời con hỗn

"Lớn rồi nghe, hư đốn thế sao ?"

Mẹ ơi! Con nhớ hôm nào

Con đau mà Mẹ tổn hao thân gầy!

 

Mẹ ơi! Con ốm rồi đây

Thèm nghe tiếng Mẹ la rầy bên tai

"Áo sứt nút không cài kẻo gió

Cháo nguội rồi, nằm đó sao con ?"

 

Lúc còn Mẹ, con còn tất cả

Mẹ đi rồi, tất cả cùng đi!

Mẹ ơi! Con chẳng còn gì

Bơ vơ đến cả khi đi, lúc về.

 

 Ngốc Tử - 1987

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2759)
Một người đàn ông ngã bệnh và tìm đến bác sĩ. Vị bác sĩ khám cho bệnh nhân này và sau đó viết cho anh ta một toa thuốc trên một mảnh giấy.
(Xem: 2539)
Vô ưu, Phạn ngữ Asoka, Hán ngữ phiên âm A du ca, A thúc ca, A thuật ca… dịch nghĩa là Vô ưu hoa, hoa không ưu tư phiền muộn.
(Xem: 2235)
Tu tâmtìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm.
(Xem: 2664)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2536)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2367)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2677)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2447)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3260)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2325)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2415)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2549)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2472)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2554)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2220)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2586)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3056)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2653)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2722)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 3009)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2573)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2614)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4116)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2782)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3074)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3322)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2294)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2522)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2807)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 3012)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2875)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2620)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2638)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3194)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2597)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2279)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2394)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2489)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2605)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2693)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2756)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3276)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2562)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2134)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2603)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2057)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2831)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2923)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2953)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2725)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant