Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Những Phút Giây Bên Thầy Tuệ Sỹ

30 Tháng Bảy 201300:00(Xem: 17933)
Những Phút Giây Bên Thầy Tuệ Sỹ

thay_tue_sy_quang_truongQua một ngày nghỉ ngơi, sau hơn 20 tiếng đồng hồ ngồi trên máy bay xuyên đại dương, tôi tìm đến gặp Thầy Tuệ Sỹ như đã có hẹn qua sư cô chùa Kiều Đàm. Tôi vào trong sân chùa Già Lam, cảnh chùa thật trang nghiêm thanh tịnh, chỉ có tiếng ve sầu kêu vang giữa buổi trưa hè. Tôi đến sớm hơn giờ hẹn, đưa mắt rảo quanh không thấy ai. Chẳng bao lâu, một nữ Phật tử từ trong chùa đi ra, tôi ghé lại hỏi. Câu chuyện qua lại, chị là người Huế. Chị biết tôi từ phương xa đến, chị hỏi:
- Có phải anh muốn thăm Thầy Tuệ Sỹ?

- Vâng, tôi đáp: tôi có hẹn gặp Thầy hôm nay.

- Thầy đang rảnh, anh có thể lên thăm Thầy. Thầy đang ở trên lầu, phòng phía tay mặt.

- Xin cám ơn chị, tôi còn đợi một vị nữa.

Chị nhìn tôi với nụ cười thân thương rồi nói:

 - Anh nên lên thăm Thầy ngay lúc này đi, chứ một chốc nữa chưa chắc thăm được Thầy.

Đáp lại lời chân tình chị, tôi cám ơn và quyết định vào thăm Thầy, sợ lỡ cơ hội không còn có dịp để gặp Thầy.

Theo sự chỉ dẫn của chị người Huế, tôi bước lên cầu thang đi thẳng đến phòng Thầy. Tôi gõ cửa, một chú Điệu khoảng 10 tuổi chạy ra. Tôi nói:

- Tôi ở xa lại muốn thăm Thầy, Điệu làm ơn cho tôi gặp Thầy.

Điệu mời tôi vào, chỉ ghế cho tôi ngồi. Điệu đi vào trong, một lát sau một con người ốm, đầu to, cặp mắt sáng bước ra, tôi nhận ra Thầy ngay nhờ có xem hình Thầy nhiều lần qua những lần Thầy bị bắt và được thả ra trên báo chí hải ngoại. Tôi đứng dậy chấp tay đảnh lễ Thầy. Thầy mời ngồi và bảo Điệu pha trà. Tôi lấy quà của anh Lê Văn gửi cho Thầy và một gói khác.

- Bạch Thầy, đây là quà của anh Lê Văn, người chung tù với Thầy ở trại A 30 Xuân Phước. Bạch Thầy, anh Lê Văn ra tù, qua Pháp. Trước khi đi con có gặp anh, anh nhờ con mang quà biếu Thầy và kính gửi lời thăm Thầy và thầy Mạnh Thác, nhờ Thầy chuyển, anh Lê Văn thỉnh thoảng có qua Mỹ.

Trong lúc này có một người gõ cửa và nói:

- Tôi lại sửa điện

Thầy trả lời:

- Hôm nay có khách, ngày mai trở lại.

 Người sửa điện đi rồi, Thầy nói với tôi: "Trước hết cho thầy gửi lời thăm quý Ôn, quý Thầy, quý Cô, quý anh chị huynh trưởng và đoàn sinh gia đình Phật tửPhật tử ngoài đó, cũng cho thầy gửi lời thăm anh Lê Văn và anh em".

Thầy nói tiếp: "trong tù chung quanh cũng bốn bức tường, ra đây cũng sống với bốn bức tường. Nhà tù lớn, nhà tù bé có khác nhau gì hơn, đi đâu người ta cũng theo dõi, hộ khẩu người ta chẳng cho, đi ra khỏi chùa phải xin phép, lâu lâu mời lên làm việc. Cái tự do gì oái oăm vậy? Những lúc gần đây dễ hơn. Giết tôi dễ lắm, nhưng tôi biết họ chưa giết tôi đâu. Ngày xưa trong Tam Quốc, Tôn Quyền muốn giết Lưu Bị nhưng lại sợ Tào Tháo bên cạnh…"

Thầy nói thao thao nhiều vấn đề, nhiều sự việc. Tôi tóm gọn vào 3 đề mục:

Định hướng, Tuổi trẻGiáo hội:

- Định hướng: là tùy khả năng của mình, cái đó làm sao ai mà dạy được? Đời hay Đạo đều phải có định hướng. Định hướng cho chính mình và cho nhiều vấn đề nữa. Khi quý thầy mới thọ giới, phải định hướng cho cuộc đời đi tu. Quý thầy có giữ được chiếc áo tu không? Làm thế nào để giữ được? Tức là cái đại lực, cái khí tiết của mình phải gìn giữ cho bản thânĐạo pháp. Dĩ nhiên trong đó có gián tiếp cho cả Dân Tộc, chớ không phải đơn giản.

Tột bậc của cái học ở ngoài đời giỏi lắm là làm đến chức Tổng Thống hay Quốc Trưởng của một quốc giaước mong nhiều lắm là làm ích nước lợi dân trong một đời người là hết, còn làm ông Tỳ Kheo (Thầy Tu) không những làm đảm bảo cho trọn vẹn con đường đi của mình mà con bảo đảm cho sự kế thừatồn tại của chánh pháp. Điều đó có nghĩa là làm bó đuốc soi đường cho cộng đồng Phật tử đang sống xung quanh mình. Nói lớn ra mình đủ khả năng thắp lên ngọn đuốc để tìm hướng đi cho Dân Tộc, lớn hơn nữa là cho cả nhân loại.

- Thế hệ trẻ: Lớp trẻ ngoài đời hiện nay như Phật tử đã thấy cũng như qua báo chí hầu hết là hư hỏng, hưởng thụ, cùng lắm chỉ biết lo cho bản thân mình mà thôi. Thành phần vào đại học và du học nước ngoài phần đông là con cán bộ lãnh đạo, con thành phần có tiền. Con cháu công, nông và lao động làm gì có đủ tiền để đóng cho con em đi học!?

Còn trong Đạo bây giờ, trường lớp và cơ sở Phật học trung, cao cấp mở ra khá nhiều. Đào tạo tăng sinh cũng nhiều nhưng chất lượng không có, cơ sở không có để hành đạo thì chỉ biết đi bán nhang mà thôi!

Cái trách này là trách mấy thầy lớn, mình đã không tạo đủ điều kiện để cho thế hệ trẻ rèn luyện nghị lựcý chí thì đừng nên làm qua loa. Học Đời thì dễ, học để làm người thì khó, học Đạo thì khó hơn. Học đạo là phải trầm tĩnh để nhận định, vì học kinh điển thì không thể hời hợt được. Tuổi trẻ cần phảithì giờ suy nghĩ, cần nghị lực để nhận biết cái tốt, cái xấu; nếu những mặt xấu quá không sửa được thì nên đạp đổ đi để làm lại hoàn toàn.

Hoàn cảnh Đạo Pháp và nước nhà lắm cảnh éo le, nếu mình không thoát nổi mình không sống trong danh dự đâu mà chúng ta chết trong trạng thái gọi là nhục. Thà người ta tiêu diệt mình bằng vũ lực, đem mình ra xử bắn cho khuất mắt, đằng này cho mình sống, cho mình chùa mà không cho mình dạy chánh pháp, không cho mình nói lên lương tri của một con người, sống như thế này thì chẳng khác nào chết. Sống mà cứ ngồi nhìn cái xác càng ngày càng phình to trong trạng thái bệnh hoạn, thối tha, cái đó không thể chấp nhận được.

Có một Tăng sĩ trẻ đã tốt nghiệp đại học hỏi tôi: "Phật Giáo Việt Nam là gì?". Tôi cảm giác đã có sự cách biệt giữa hai thế hệ, sự cách biệt này bằng một bức tường ý thức hệ. Chưa đầy nửa thế hệ mà những thành tựu trong quá khứ của Dân Tộc hầu như không được thế hệ thừa kế biết đến và trân trọng.

- Giáo hội Phật Giáo Việt Nam: Khi mới thống nhất đất nước chính quyền cộng sản muốn đưa miền Nam "tiến nhanh tiến mạnh lên xã hội chủ nghĩa". Trước hết họ phải triệt tiêu tôn giáo, nhất là Phật Giáo, vì họ cho tôn giáo là thuốc phiện ru ngủ quần chúng. Họ tìm cánh khống chế bằng hàng loạt biện pháp, họ dùng chế độ "nhất Tăng nhất Tự" để cưỡng bức Tăng Ni trẻ hoàn tục. Thành phần lãnh đạo của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất họ hành hạ đến chết như Hòa Thượng Thiện Minh, Hòa Thượng Trí Thủ, hoặc đày đọa không xét xử như Hòa Thượng Huyền Quang, Hòa Thượng Quảng Độ.

Qua những hành động thâm độc, họ đã bị phản ứng quyết liệt của Tăng, Ni, Phật tử và đồng bào bằng những vụ tự thiêu, tự tử; những bản án tử hình, chung thân khổ sai… Từ đó họ phải xét lại chính sách tôn giáo. Họ dùng sách lược Lenin để lại "Đảng phải thông qua tôn giáo để tập hợp quần chúng", cho nên họ cho ra đời một tổ chức mệnh danh là "Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam". Người đời gọi là "Phật Giáo nhà nước" hay "Phật Giáo quốc doanh"!

Dưới phương châm "Đạo pháp Dân Tộc và chủ nghĩa xã hội" Phật Giáo Việt Nam sẽ không tồn tạitrưởng thành như trong quá khứ.

Ý thức của xã hội chủ nghĩavô thần: Phật Giáo Việt Nam muốn tồn tại phải biến chất để thích ứng, phải tiến lên thành một tôn giáo vô thần theo định nghĩa của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Một Phật Giáo theo xã hội chủ nghĩa còn quái dị hơn nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Sự gán ghép đạo pháp vào chủ nghĩa xã hội chẳng khác nào một con chó nhà và con chó sói vào một sợi dây. Khi có biến, một con chui xuống gầm giường, một con tìm đường chạy vào rừng trở lại, hai con thú giằng co nhau bởi một sợi dây oan nghiệt.

Nhiều lần mấy Ôn bên giáo hội nhà nước mời tôi đi dạy, tôi thưa với mấy Ôn: "Mấy Ôn cho tôi dạy bằng sự hiểu biết của tôi, tôi mới dạy, còn dạy theo đề án của người khác soạn đứng sau lưng mấy Ôn thì tôi không có dạy".

Truyền thừa Phật học mà theo chỉ đạo của đời thì thử hỏi sự truyền thừa đó ra cái gì? Tương lai Đạo Pháp đi về đâu?

Khi Ôn Trí Thủ còn sống, nhiều lần tôi đã nói với Ôn: "sức mạnh của Phật Giáo không phải là ở nơi chính trị mà ở văn hóaxã hội, giáo dục là hàng đầu".

Nhiều lần tôi trình Ôn một phương cách làm việc của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất nhưng Ôn không nghe, cuối cùng Ôn đã chết một cách thê thảm! Họ thâm độc dựng lên một giáo hội mới để tiêu diệt một giáo hội truyền thống đã có hơn 2000 năm trên đất nước Việt Nam.

Thấy thời gian thăm Thầy đã lâu, tôi liền thưa với Thầy: "Bạch Thầy, con có duyên gặp Thầy, thời gian hàn huyên thăm Thầy, Thầy dành cho con khá lâu, nay con xin tạm biệt Thầy để Thầy nghỉ trưa, có dịp con xin trở lại thăm Thầy".

Chín mươi phút được ngồi bên Thầy, được nghe Thầy nói những bức xúc về thời cuộc, những hệ lụy của Đạo pháp, những khổ đau của Dân Tộc, được nhìn ánh mắt trong sáng của Thầy, được cầm tay Thầy để Thầy truyền cho hơi ấm của tình thương và sự dũng cảm của một con người không lùi bước trước họng súng và lưỡi lê, để vững niềm tin trên con đường phụng sự Đạo Pháp và Dân Tộc. Cầm tay Thầy mà hai hàng nước mắt chảy dài: "Thầy ơi, Thầy phải giữ gìn sức khỏe, Thầy là linh hồn của Đạo, Thầy là ngọn đuốc soi đường cho chúng con".

Khi tiễn tôi ra cửa Thầy nói: "có duyên thầy trò mình sẽ gặp nhau", và Thầy thốt lên câu: "TÌNH THẾ PHẢI ĐỔI THAY".

Cái ray rứt, cái băng khoăn của Thầy là nỗi đau chung cho những ai còn trăn trở cái đau của Mẹ Việt Nam. Thầy đã đặt hết tâm huyết, tánh mạng của mình trước sức mạnh của sắt thép. Thầy không những là một vị chân tu khả kính, Thầy còn là một đại trí thức và một bầu trời thơ. Thầy đã để lại cho đời những tư tưởng siêu thoát, những bài học làm người đúng nghĩa của một con dân Việt trước cơn quốc nạn.

Trong chuyến đi này, tôi gặp một vài người bạn Mỹ ở Saigon và Hà Nội họ hỏi tôi:

- Anh nghĩ gì sau hai mươi năm trở lại Việt Nam?

Tôi trả lời:

- Chưa đầy 30 năm, họ đã biến Hòn Ngọc Viễn Đông đáng tự hào của Dân Tộc trong quá khứ ngày nay đã xuống cấp về mọi phương diện từ vật chất đến tâm linh. Tôi chỉ mói gọn trong chữ "không" và chữ "nghèo".

Việt Nam ngày nay không có tự do, không có dân chủ, không có dân quyền, không có dân sinh và không có tự do tôn giáo.

Việt Nam ngày nay nghèo phương tiện sản xuất, nghèo nhân cách, nghèo quyền làm người, nghèo nhân phẩm và nghèo niềm tin. Một đất nước như vậy, xin thưa "nó sẽ đi về đâu?"

Ông ta trả lời:

- Còn hơn các nước Phi Châu!

Nghe câu trả lời mà nhói cả tim! Hiện tình Đạo Pháp và Dân Tộc như chúng ta đã thấy, muốn giải trừ quốc nạn và pháp nạn để cho Đạo pháp trường tồn, Dân Tộc được tự do hạnh phúc, chúng ta hàng phật tử không thể an nhiên tự tại ngồi nhìn Đạo pháp và Dân Tộc bị nhiễu nhương, Thầy Tổ bị bức hại bởi thế lực vô minh. Trong tứ ân của nhà Phật có ân Quốc Giaân Thầy Tổ.

Tự donhân phẩm của Dân Tộc mình không ai cho không. Chúng ta phải hành động quyết liệt (không bạo động) với khả năng mình có để tạo được tổng lực Dân Tộc mà quốc nội là chính. Hải ngoại chỉ là một tiếp lực để làm xói mòn sức mạnh của chế độ độc tài đảng trị!

Những ngày gần đây chúng ta đã không ngừng chứng kiến những nước độc tài còn lại trên thế giới đã bị xóa bỏ, nhường bước cho chế độ dân chủ pháp trị tiến lên theo quyết định của toàn dân, để thành lập một nên dân chủ cho dân, vì dân. Bởi dân thật sự không phải "dân chủ bánh vẽ" để trang trí. Đây là xu thế thời đại và sự tiến bộ của nhân loại, Việt Nam không thể là quốc gia ngoại lệ

 chua_gia_lam

chua_gia_lam_2Quang Trường Võ Văn Xuân


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2531)
Vô ưu, Phạn ngữ Asoka, Hán ngữ phiên âm A du ca, A thúc ca, A thuật ca… dịch nghĩa là Vô ưu hoa, hoa không ưu tư phiền muộn.
(Xem: 2219)
Tu tâmtìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm.
(Xem: 2656)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2522)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2346)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2661)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2434)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3247)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2320)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2410)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2532)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2467)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2536)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2193)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2578)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3046)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2647)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2706)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 2987)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2552)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2589)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4086)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2768)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3063)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3304)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2286)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2500)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2803)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 2999)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2868)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2605)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2628)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3188)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2595)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2270)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2383)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2475)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2595)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2683)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2742)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3265)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2556)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2128)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2594)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2050)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2817)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2902)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2937)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2707)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
(Xem: 2508)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant