Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phật Ở Trong Tâm Hay Phật Ở Ngoài Tâm

12 Tháng Chín 201300:00(Xem: 11423)
Phật Ở Trong Tâm Hay Phật Ở Ngoài Tâm

Phật Ở Trong Tâm Hay Phật Ở Ngoài Tâm

Tịnh Liên Nghiêm Xuân Hồng

phat_va_hoa__10_

Phật! Phật! Phật! Tâm! Tâm! Tâm
Thức! Thức! Thức! Tỉnh! Tỉnh! Tỉnh

Ðó là hai câu thơ của ngài Thượng Sỹ Tuệ Trung, một vị công hầu đời Trần, đã từng cầm quân chống giặc Nguyên, sau bỏ đi tu Phật để suy ngẫm về cái hiện tượng của Tâm và cái lẽ của Thiền.

Hai câu thơ đó có ý nói rằng nền giáo lý của Phật, tuy mênh mang như biển cả, xong có thể thu gọn trong hai chữ Tâm và Phật, hoặc Mê và Ngộ.

Hãy nói về cái Tâm.

Một lần, trên núi Linh Sơn, Ðức Thích Ca ngự trên tòa sen, sắp thuyết pháp. Nhưng Ngài không nói gì cả, chỉ khoan thai đưa một cành hoa, rồi lặng lẽ mỉm cười. Ðó là tịch niện hoa vi tiếu, độc đáo lối thuyết pháp Phật giáo. Ý Ngài muốn nói như thế này: "Ta có một chân lý tối thượng, đó là chân lý của cái Tâm, nhưng cái Tâm này nó lặng lẽ lắm, nó nhỏ nhiệm, tịch mịch, vi diệu lắm. Ta không thể dùng lời lẽ thế giandiễn tả nó được. Vì nếu ta chỉ động một niệm, chỉ nói một chữ, là Tâm đó đã biến thế rồi. Vậy các người phải lặng lẽ, nhỏ nhiệm, tịch mịch, vi diệulãnh hội nó. Nhớ đấy! Nhớ đấy! ..." Nhưng các đệ tử đều ngơ ngác không hiểu, riêng có ngài Ca Diếpmỉm cười đáp lại mà thôi. Do đó, Ngài đã truyền tâm ấn cho Ca Diếp, cùng y bát để làm đệ nhị tổ của Thiền Tông. Trong giòng này, Ðức Ðạt ma là tổ thứ 28.

Một lần khác, Ðức Thích Ca xuất định, giảng về kinh Lăng Nghiêm. Cũng là giảng về Tâm. Nhưng lần này, Ngài bảo ông A Nan đại khái như sau: "Người nên thận trọng, chớ có vọng tưởng. Cái Tâm ấy nó lạ và huyền nhiệm lắm vì nó là nguồn gốc của tất cả phép lạ đã tạo nên vũ trụ này. Nó như cái gương trong đó, vũ trụ này hiện lên như một cảnh huyễn, như một giấc chiêm bao, như tiếng vang, như mặt trăng dưới đáy nước, như bóng chiếc nhạn in dưới hồ thu, như ảo ảnh nước mà kẻ lữ hành nhìn thâý trên sa mạc, như những đóm đỏ vàng mà kẻ dặm mắt nhìn thấy ở hư không. Hãy thức tỉnh! thức tỉnh! Cái tâm ấy hiển hiện dễ dàng lắm, nhưng nó khó nắm, khó bắt lắm! Nó không ở trong thân người, nó không ở ngoài thân người, nó cũng không ở khoảng giữa. Nó không ở chỗ nào hết, nhưng nó ở tất cả. Nó trụ vào cái gì, thì cái đó trở nên có, nó buông cái đó ra thì nó trở nên không. Nó là anh thợ vẽ, và chính nó vẽ vời nên cảnh thế gian này cùng tâm giới. Nó động một niệm là nó nguệch một nét, nét đó biến thành thức, thức đó động lại trên giòng tâm tư của chúng sinh để trở nên cảnh giới của vũ trụ thế gian.... Nhưng nếu người tỉnh cơn mê, dẹp bỏ lục tặclục căn, thì cái thức đó sẽ hồi đầu, rút khỏi các căn và trở về và ngươi sẽ nắm được cái Tâm."

Sau này, Ðức Huệ Năng gọi Tâm đó là bản lai diện mục.

Cũng trong kinh Lăng Nghiêm, Ðức Phật còn dạy: Cái Tâm ấy, bổn tính nó vốn trong sáng. Vì thế, các ngươi mới có "cái thấy". Cái thấy này là nồng cốt của lục căn, nhưng nó không phải là lục cănLục căn có thể bị tiêu hoại, nhưng nó không tiêu hoại. Nó không gián đoạn, nó bất diệt, và chính nó đã triển chuyển theo lẽ nhân quả, trong cái vòng luân hồi qua các kiếp.

Ðọc Tây Du Ký, thì ta thấy Tề Thiên Ðại Thánh là cái Tâm. Nó ngang ngược, thay đổi không ngừng, nhưng quyền năng của nó cũng vô cùng. Nó có thể phá cửa nhà trời, cũng như có thể hồi đầu khi bị giam bởi thần lực của câu chú: Ôm Ma Ni Pát Mê Hồng. Nó muốn lớn là được lớn, muốn nhanh được nhanh, muốn chậm có chậm. Có thể biến hoá cây thiết bổng, có thể bước một bước càn đẩu vân vượt qua 84 ngàn dặm, hoặc muốn bay như con ruồi cũng được. Muốn có một thân cũng được, hoặc phân thân làm trăm ngàn cũng có... Và Ngài Huyền Trang đã phải nương vào cái tâm đó, mới đi tới Tây Trúc cầu một cuốn kinh vô tự.

Bây giờ nói đến Phật

Ðức Bồ Ðề Ðạt Ma, chống cây gậy trúc sang Trung Hoa ngồi quay mặt 9 năm vào vách đá, nhắm đôi mắt biếc lại. Vua Lương Võ Ðế hỏi: Trẫm xây hàng trăm ngôi chùa, nuôi hàng vạn chư Tăng, có công đức gì không? Ðức Ðạt ma bảo, có chút ít, nhưng không ăn thua gì... Sở dĩ Ngài nói thế vì muốn bảo vua rằng cần nhất là phải soi vào Tâm, để trở thành Phật.... Trong một buổi thuyết pháp, Ngài lại bảo: Phật và Bồ Tát cũng đều là huyễn cả, còn là mê. Hỡi ôi, tất cả đều là mê cả!!!

Trong Bổn Kinh A Di Ðà, thì Ðức Thích Ca lại căn dặn: "Về phía Tây, có lạc quốc của Ðức A Di Ðà, bên cạnh có Ðức Quán Âm và Ðại Thế Chí. Ðức Phật ấy có thực đấy và nguyện lực của Ngài lớn lắm. Các người nên cầu nguyện mà sang đó."

Tại sao lại có sự mâu thuẫn như vậy, một đằng bảo Phật là rất có thực, một đằng nói là huyễn?

Thực ra không có gì mâu thuẫn. Chỉ là do mê và ngộ mà thôi.

Chư Phật vừa là huyễn vừa là thực. Khi tâm chúng ta còn mê mờ, chúng sinh coi thân và tâm là thực, thì chư Phật đối với chúng sinh vẫn là thực và có thể dùng tha lực cứu độ. Nhưng khi tâm chúng sinh đã ngộ rồi, thì chúng sinh cũng trở thành huyễn, và chư Phật, vốn là những hình bóng, cũng trở thành huyễn. Vì cái Tâm ngộ đã vượt qua được lãnh vực đối đãi (dualistic) và đạt tới trực quan bất nhị. (phi hữu phi không)

Bởi thế, khi một người niệm Phật, và nuôi một ông Phật trong tâm, thì lúc đầu chỉ có một ông Phật trong tâm thôi. Niệm lâu sẽ gây một luồng cảm ứng làm động tâm Ðức Phật ở bên ngoài, tức Ðức A Di Ðà ở Tây Phương. Ðức A Di Ðà liền làm mọc sẵn một chiếc hoa sen nơi lạc quốc để chờ người niệm Phật. Niệm lâu hơn nữa, thì Ðức A Di Ðà sẽ đến trước mặt người đó. Như thế, là có hai vị Phật, một ở ngoài và một ở trong tâm. Niệm đến chỗ rốt ráo và tâm bất loạn, thì Ðức A Di Ðà sẽ lọt vào tâm người đó, và trở thành một, và Phật thực cũng trở nên huyễn.

Cho nên, không thể nói Phật ở ngoài tâm hay trong tâm được. Nói ở ngoài là nói thấp, nói ở trong là cao hơn một chút. Ðến chỗ rốt ráo, thì Phật là tâm và tâm là Phật. Cả hai vừa là thực vừa là huyễn. Vả lại, Tâm ở tất cả mọi chỗ, nên không có trong hay ngoài.

Có mấy chú học sinh Thiền học ngồi cãi nhau, chỉ một tảng đá trước mặt, và tranh luận hăng hái. Kẻ thì bảio tảng đá ở ngoài tâm, một anh khác hùng biện hơn nói là ở trong tâm, và có vẻ thắng lý. Chợt ông thầy đi qua, cười bảo anh này: Ðá ở trong tâm mày, chắc đầu mày phải nặng, và nhức đầu lắm!....

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2752)
Một người đàn ông ngã bệnh và tìm đến bác sĩ. Vị bác sĩ khám cho bệnh nhân này và sau đó viết cho anh ta một toa thuốc trên một mảnh giấy.
(Xem: 2531)
Vô ưu, Phạn ngữ Asoka, Hán ngữ phiên âm A du ca, A thúc ca, A thuật ca… dịch nghĩa là Vô ưu hoa, hoa không ưu tư phiền muộn.
(Xem: 2229)
Tu tâmtìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm.
(Xem: 2660)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2527)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2357)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2672)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2439)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3248)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2321)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2413)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2544)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2468)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2542)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2211)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2579)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3048)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2651)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2714)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 3001)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2560)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2596)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4101)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2774)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3068)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3312)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2291)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2502)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2803)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 3004)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2871)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2608)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2636)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3189)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2595)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2272)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2391)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2479)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2597)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2692)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2748)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3266)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2557)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2132)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2600)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2053)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2819)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2907)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2939)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2717)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant