Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Sương Tan Thành Lệ

24 Tháng Mười 201300:00(Xem: 11286)
Sương Tan Thành Lệ

Sương Tan Thành Lệ

Hạnh Chi

suong_tan_thanh_leTrong những trang kinh tả cảnh giới đẹp đẽ trên cõi Cực Lạc của Phật A Di Đà, có đoạn: “Bỉ Phật quốc độ vi phong xuy động, chư bảo hàng thọ, cập bảo la võng, xuất vi diệu âm, thí như bá thiên chủng nhạc đồng thời câu tác…”. Ý nói, trong thế giới của Đức Phật đó gió thơm thổi nhẹ qua các hàng cây báu cùng các màn lưới báu giăng cao, phát ra âm thanh vi diệu tựa như muôn ngàn nhạc khí hợp tấu”. Đoạn kinh này là một, trong rất nhiều họa phẩm tuyệt táckinh A Di Đà mà người thưởng ngoạn không chỉ chiêm ngưỡng màu sắc, còn rung động với bao âm thanh hài hòa, từ tự thể cảnh giới đó cất lên.

Sáng nay, khi thiền hành dọc con đường nhỏ trước giảng đường, tôi chợt bắt gặp phần nào, cảnh giới đó.

Sáng sớm, trời còn mờ sương có lẽ chưa phải là thời gian thích hợp để thong thả thiền hành đối với nhiều người. Nhưng tôi, một kẻ quen sống với giác quan thứ sáu, là thường làm những gì chợt cảm thấy muốn làm, hay nên làm, mà không sợ hãi, so đo hơn thiệt. Cũng may, giác quan này thường cho tôi biết sự thật, dù đôi khi là những sự thật rất đau lòng!

Sáng nay, biết là còn sớm, nhưng khởi niệm muốn thiền hành khi phố xá vắng người nên tôi đi vớ, mặc thêm áo, quàng thêm khăn và mở cửa bước ra ngoài. Đường vắng đến độ đôi dép tôi mang rất êm mà vẫn nghe thấy nhịp chân mình bước. Tuy tôi giữ tâm vào hơi thở đều nhưng vẫn nghe mơ hồ đâu đây, tiếng gió thơm thổi qua các hàng cây báu. Đúng thế, gió nhẹ hửng đông đang thổi qua hàng cây ven đường, vi vu, trầm bổng như tiếng tụng Lăng Nghiêm; và trên giậu tường vi, long lanh bao hạt ngọc trời đính trên lá biếc, khác gì các màn lưới báu nơi cõi nước tịnh của giáo chủ Tây Phương! Tôi dừng lại trước giậu hoa, chăm chú nhìn những hạt sương mong manh trong suốt, khẽ uốn mình qua lại trên thân lá, như chưa từng bao giờ thấy những hạt sương thoát tục đến thế. Dù kim cương được tôn vinh là đẹp nhất trong mọi loại đá quý cũng không thể đẹp bằng những hạt sương tôi đang chiêm ngưỡng vì những hạt kim cương mà nằm đây thì không thể mang vẻ thảnh thơi, tự tại được; chúng sẽ là mục tiêu của bao sự tranh giành, cướp giựt, đưa đến sân hận, oan khiên! Những hạt sương trên giậu tường vi đẹp như kim cương nhưng không lo sợ ai tranh cướp, đập nát cả. Hạt sương đến khi đủ duyên, đi khi hết duyên, và phút giây nào hiện hữu thì hoan hỷ mang thông điệp của đại-thừa Kim-Cang-Kinh, vô ngôn mà bất tận.

Tôi khẽ nhấn ngón tay trên một chiếc lá non. Hạt sương theo sức nhấn, lăn nhẹ theo, rồi đậu giữa lòng bàn tay, tròn trịa, vẹn toàn, không rơi vãi đi đâu chút nào! Với tôi, trong phút giây tinh khôi đầu ngày, hạt sương long lanh trên tay đang thị hiện cảnh giới trang nghiêm khi đại chúng đồng ngồi nghe pháp tại vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc:

Nhất thiết hữu vi pháp
Như mộng huyễn bào ảnh
Như lộ diệc như điện
Ưng tác như thị quán (*)

Tôi lặng người vì xúc động, tưởng như đang được nghe Đức Thế Tôn dạy ngài Tu Bồ Đề, trong đoạn 28, kinh Kim Cang, rằng, ví như có vị Bồ Tát đem bảy thứ ngọc ngà châu báu chất đầy khắp hoàn vũbố thí, thì công đức vị ấy cũng không hơn công đức của một người chợt hiểu ra, các pháp đều vô ngã; nhất là, khi người ấy chấp nhận sự thật đó một cách thảnh thơihoan hỷ.

Khi tôi rời giậu tường vi, tiếp tục kinh hành thì ánh dương cũng vừa hé rạng. Trên đường trở về chùa, tôi biết những hạt sương trên lá đang tan dưới ánh mặt trời. Sương dẫu tan thành lệ nhưng là những hạt lệ tưới tẩm đất mầu để cây lá xanh tươi hơn. Hạt-ngọc-trời trao tặng thế gian như vậy. Nhưng những hạt ngọc nhân gian tặng nhau để trang điểm cho những gì họ ngỡ là sẽ thủy chung, sẽ bất tử, lại thường vỡ nát dưới lăng kính của những tỵ hiềm, ích kỷ, dối gian, sân hận. Những hạt ngọc đó khi tan thành lệ mới là lệ trầm kha bi thảm, lệ chảy đời này chưa đủ, còn luân hồi tìm nhau kiếp khác để tiếp tục vay trả và đổ lệ đầm đìa như tinh thần sám pháp Lương Hoàng Sám từng chỉ dạy. Tại sao nhân gian thường khó đi suốt kiếp với nhau bằng sơ tâm yêu thương, ngọt ngào thuở ban đầu? Có lẽ bởi nhân gian không can đảm trực diện và quán chiếu lẽ vô thường của các pháp.

Những gì tưởng đang sở hữu, đang nắm bắt, thật ra, bản chất chỉ là giấc mộng không thật, chỉ là bọt nước, là bóng nắng, là hạt sương, là điện chớp “Như mộng huyễn bào ảnh. Như lộ diệc như điện”. Nếu quán được và chấp nhận được như thế thì sự còn, mất của người thân, sự thủy chung hay phản bội của người thương, sự gắn bó hay hời hợt của bằng hữu …v.v sẽ đi qua đời ta như những cơn gió thoảng. Ta có nắm bắt được gì đâu mà rơi lệ khóc than vì còn, vì mất? Thử hứng một hạt sương buổi sáng. Hứng bằng tất cả sự ân cần giữa lòng bàn tay, ta thấy gì trước khi ánh mặt trời rực rỡ phương đông rọi tới? Ta thấy sự chuyển hóa. Hạt sương long lanh chuyển hóa. Cái đẹp đó sẽ chuyển hóa. Như chính chúng ta sẽ chuyển hóa. Sương sẽ tan thành lệ. Ta sẽ tan thành bụi. Với tỷ lệ tương đối, có lẽ thời gian hiện hữu ngắn ngủi của hạt sương cũng chẳng kém chi một kiếp người, như ta thường tin rằng trăm năm ở trần gian chỉ bằng một ngày trên tiên giới; hoặc như đời sống của bông hồng dài hơn đời bông sứ, nhưng bông sứ lại xót thương đóa quỳnh hương, mang tất cả hương sắc tặng đời chỉ vẻn vẹn trong một đêm trăng tỏ! Vạn hữu thầm lặng mà vẫn hiển lộ bố-thí-ba-la-mật, cho hết lòng mà không chờ nhận lại.

Cũng thế, chỉ với sát na ngắn ngủi đọng trên lá non, hạt sương đã biểu hiện sự tinh khiết tuyệt đích của cái đẹp toàn vẹn trong phút giây hiện tại. Còn chúng ta, quãng đời chớp mắt trăm năm, chúng ta làm gì để thăng hoa? Thương thay! Chúng ta thường quẩn quanh mộng mị, thấy những gì trong mộng là thật. Đúng, tất cả là THẬT TRONG MỘNG, nhưng vừa khi thức tỉnh thì ngay giấc mộng cũng không còn, huống chi là những gì trong mộng ảo! Có lẽ chúng ta đều biết như thế. Biết nhưng không chấp nhận vì cái tâm mong cầu luôn vẽ ra bao cảnh trí trong mộng nên nhân gian khó thoát những sợi giây vô hình, cuốn ta mê thiếp qua bao giấc mộng ngắn, dài của kiếp người, xô đẩy tới lui giữa tam độc tham, sân, si chập chùng vay, trả. Một hành giả có lần bộc bạch cùng thiền-sư Tăng Xán: Con khổ quá! Xin Thầy dạy cho con pháp môn giải thoát. Thiền-sư nhìn học trò, vừa thương hại, vừa nghiêm giọng hỏi: Ai trói buộc ngươi?

Câu hỏi, nhưng cũng là câu trả lời thấm thía, đáng cho chúng ta suy ngẫm.

Hạnh Chi
(Độc-Cư-Am, tháng giêng 2009) 
(*) Kệ kinh Kim Cang

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2619)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2500)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2313)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2625)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2411)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3215)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2277)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2377)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2506)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2448)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2510)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2159)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2534)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3015)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2616)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2672)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 2944)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2515)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2550)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4014)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2753)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3013)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3277)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2270)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2482)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2767)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 2972)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2839)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2592)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2602)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3170)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2574)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2251)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2357)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2460)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2566)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2658)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2704)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3229)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2532)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2111)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2564)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2030)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2791)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2869)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2902)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2684)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
(Xem: 2478)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2752)
Đời sống của con người thọ mạng nhiều lắm chỉ trên dưới trăm năm. Trong chuỗi thời gian này con người hưởng hạnh phúc không bao nhiêu,
(Xem: 2331)
Đạo đứccăn bản làm người. Một khi có đạo đức rồi, chúng ta mới có thể đứng vững được.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant