Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Mê Tín Dị Đoan

22 Tháng Mười Hai 201300:00(Xem: 16994)
Mê Tín Dị Đoan

MÊ TÍN DỊ ĐOAN


Toàn Không

I). Thế nào là mê tín?

 Mê tínu mê không hiểu biết chân chính, tin những điều không đúng sự thật, tin mù quáng; phần nhiều là những việc về tinh thần, nhưng cũng ảnh hưởng về vật chất, mê lầm tưởng đó là sự thực; từ sự tin sai lầm đưa tới nói năng hành động sai lầm. Như tin bà đồng bà cốt, tin bói quẻ, tin thầy bùa thầy chú, v.v…, những loại tin này không có một chút căn bản, không thể chứng minh được, nên được liệt vào hạng mê tín dị đoan.

 

II). Nguồn gốc mê tín:

 Mê tín là cái bệnh có từ khi có loài người đến bây giờ, có khi mê tín cách này, có khi mê tín thế khác, như thời xưa tin có thần cây đa, thần giếng nước, thần sông, thần đầu làng, v.v…Ngày nay sự mê tín này đã giảm nhiều, nhưng lại có những loại mê tín mới khác rất thịnh hành trong đời sống hàng ngày.

 Sự mê tín, không phải tự nhiên mà có, nó có nguồn gốc do sự mong cầu mà ra, do sự sợ hãi mà ra. Chúng ta thử phân tích hai loại nguồn gốc này:

 

1). Mê tín do sự sợ hãi:

 Khi xưa thờ đủ thứ vì sự sợ hãi của con người trước thiên nhiên như thiên tai bão tố, lũ lụt ngập tràn, sấm chớp chát chúa kinh hoàng, lốc xoáy tàn phá cuốn lôi, đêm tối mịt mù. Tất cả đã làm cho con người chết chóc, tai ương, nhà tan cửa nát v.v…, thành ra sợ hãi. Con người đã nghĩ ra có thần nọ, qủy kia tức giận gây nên sự tệ hại ấy, và họ phải cúng vái để xin được yên ổn.

 Ngày nay, sự sợ hãi trên bớt nhiều, nhưng sự sợ hãi khác kín đáo hơn và sâu xa hơn vẫn hoành hành ở mọi nơi, không cứ ở Á Châu có mê tín , mà ở Âu , Mỹ, Úc, Phi Châu đều có mê tín, nhưng với hình thức khác nhau thôi. Như đối với dân Việt Nam, khi một gia đình liên tiếp trong một số năm có hai ba người bị tại nạn, bệnh hoạn chết, là có người đưa ra câu hỏi tại sao gia đình ấy lại có tai họa như vậy, có thể gia đình này có chuyện gì nên mới xảy ra như thế, chắc là động mồ động mả? Có lẽ có ma quỷ ám, chắc là có người dùng bùa ếm hại, hay là có thần linh nào dáng họa cho gia đình ấy? v.v… Người ta nghĩ ra đủ thứ nghi vấn, kể cả những người trong gia đình ấy cũng có suy nghĩ giống như thế; rồi họ bàn ra tán vào từ cửa miệng người này qua cửa miệng người khác, họ đề nghị chỗ nọ linh thiêng nên đến đó lễ bái cho tai qua nạn khỏi; chỗ kia có thầy bói thầy tướng, ông đồng bà cốt, thầy bùa thầy ngải hay nên đến hỏi han để trị cho dứt tai họa.

 Trong một gia đình có một người mắc bệnh nan y, khám phá ra quá trễ, Bác sĩ hết cách cứu chữa, như bệnh Ung thư, bệnh AIDS. Người bệnh, gia đình người bệnh, bạn bè bà con hoang mang, sợ hãi, buồn khổ. Có người mách chỗ linh thiêng đến lễ bái, chỗ đến xin bùa chú hộ mạng, họ đều làm theo, nhưng bệnh nào tật ấy, tới ngày chết vẫn chết.

 Có người làm việc nguy hiểm, lo sợ không biết sẽ ra sao, nên đến lăng miếu xin xăm xin quẻ, nếu được tốt mới làm, nếu gặp quẻ xấu thì thôi; hoặc có người coi bói coi tướng, thầy nói vận hạn xấu phải cúng sao giải hạn, đi lễ chỗ này chỗ nọ; hoặc có gia đình bị chết hai ba người liên tiếp thì hoảng hốt đi đón thầy bùa thầy ngải về ếm. Lại có người thương cha thương mẹ chết khổ, coi bói toán, hỏi đồng cốt chỉ cho nơi âm ti cha mẹ thiếu thốn khổ cực nên phải đốt nhà lầu, xe cộ, quần áo, tiền bạc giấy để cha mẹ nơi cõi âm ti được hưởng, không còn nghèo thiếu nữa. v.v…

 Tất cả những trường hợp trên đây đều do sự lo sợ mà sinh ra mê tín dị đoan.

 

2). Mê tín do mong cầu:

 Con người có đủ thứ mong cầu, có mong cầu có thể đạt được, nhưng có những mong cầu không thể đạt, quá tầm tay. Những mong cầu quá tầm tay của mình, thường hay tìm cách này, nghĩ cách khác để cố làm sao đạt được. Dù đạt được hay không, cũng cố tìm cách, do đó dễ đi vào mê tín.

 Như người có con đi thi hay làm ăn buôn bán, bèn mua hương hoa quả và chút tiền đến lễ Phật tại một ngôi chùa nọ cúng lễ cầu Phật phù hộ cho con thi được đậu hay buôn may bán đắt, như vậy thấy rõ lòng tham, bỏ ra một ít lại muốn được nhiều; khi cầu được việc thì mừng vui khen ngợi. Lần khác có việc cầu lại làm giống như thế, nhưng nếu không được như mong đợi, sinh tâm mất tin tưởng, đi tìm chùa khác hay đền, lăng, miếu có người nói linh thiêng, từ đó đưa người Phật tử dần dần đến mê tín.

 Một người khi đang làm ăn buôn bán bình thường, nhưng lại muốn biết tương lai có khá hơn không, lại nghe người ta nói có ông đồng bà cốt nào đó nói rất trúng. Họ liền đến hỏi han, chỉ bỏ ra một chút tiền mà biết được việc làm ăn của mình thì hay biết mấy, nên chỗ ông đồng bà cốt người ra kẻ vào tấp nập.

 Có người đồn ông nọ, bà kia coi bói coi bài, coi tướng tử vi hay lắm, nói đúng mọi chuyện; chỉ phải bỏ ra ít tiền mà biết được tương lai, thật hay biết bao; những người đang làm việc cho chính quyền, những người dân cử v.v…muốn biết tương lai công danh sự nghiệp đến coi cho biết hậu vận, nên thầy bói thầy tướng sống khoẻ.

 Lại có người buôn bán lặt vặt muốn mau giàu, có học sinh hoặc sinh viên muốn đậu, muốn được vào ngành mong muốn, không tin vào sự làm ăn, không tin vào khả năng học hành của mình. Nghe nói lăng nọ, miếu kia thiêng lắm liền đến lễ bái cầu xin, xin xăm xin quẻ hỏi thăm thần thánh, làm cho kẻ buôn thần bán thánh hưởng lợi tiền cúng thoải mái. Tất cả những việc làm trên thiếu căn bản giải thích, đều là mê tín dị đoan cả.

 

III). Cách trị mê tín:

 Là con người, không ai không có sợ hãi, không ai không có mong cầu, càng sợ hãi, mong cầu nhiều chừng nào, càng dễ rơi vào mê tín nhiều chừng ấy; ngay cả những người chống đối mê tín cũng chưa chắc họ là người không mê tín hoàn toàn, vì sao? Vì khi chưa gặp việc thì họ nói hay, nhưng khi gặp việc kinh hoàng sợ hãi, cầu mong tai qua nạn khỏi không được đến nỗi tuyệt vọng rồi, dù người có kiến thức rộng, người có bằng cấp này nọ, cũng vẫn rơi vào mê tín. Thí dụ: trong một gia đình hai vợ chồng đã lớn tuổi, có một người con duy nhất ở tuổi tráng niên khoảng trên ba chục tuổi, bỗng nhiên người con này mắc bệnh nan y vô phương cứu chữa; sự việc xẩy ra như thế, làm cho mọi người trong gia đình lo sợ khủng khiếp, bối rối khổ sở vô cùng. Khi đó có người mách bảo, người vợ đi coi thầy bói thầy tướng, đi hỏi ông đồng bà cốt, đi lễ lăng nọ miếu kia, người chồng vẫn im lặng thuận theo không mở miệng nói năng chi hết. Bởi vì sự sợ hãi, sự mong cầu muốn cho người con được tai qua nạn khỏi, nên mê tín dễ hoành hành. Tưởng rằng đó là cái phao cho người sắp chết đuối bám vào; do đó, sự mê tín là một bệnh, nó đã nằm sẵn trong mỗi con người, khi gặp sự việc sợ hãi mong cầu xẩy ra, nó mới xuất hiện.

 Muốn trị bệnh mê tín, phải có thần dược của Phật pháp mới trị được, nếu thực hành lời dạy của Phật sẽ trừ được bệnh mê tín như sau:

 

1). Cách diệt trừ mê tín thứ nhất:

 Học hỏi tìm tòi thuyết nghiệp báo nhân quả cho rõ ràng suốt thong, người đời thường nghi ngờ nhân quả vì họ không nhìn thấy trước mắt, họ lại mong cầu quả không tương xứng với nhân. Họ mơ ước có quả ngoài tầm tay của họ, nên đã đưa đẩy họ đi đến mê tín. Nếu mọi người biết rõ ràng như thật rằng nhân nào quả ấy, mọi sự thành công hay thất bại đều do nguyên nhân tốt hay xấu tạo nên, và cứ tạo nhân lành sẽ được hưởng quả tốt mai hậu. Nếu mọi người hiểu được rằng cái quả tốt hay xấu mà họ có ngày nay là do đã gây tạo ra từ trước, tin như vậy, sẵn sàng nhận lãnh, không mong cầu, không lo sợ, và bình tĩnh nhận quả. Quả tốt không kiêu hãnh, quả xấu không sầu khổ, sống tự tại an nhiên làm các điều tốt lành.

 Mọi sự trên đời không phải ngẫu nhiên mà có, không phải do một thần linh nào ban phát hay thưởng phạt mà do nhân chúng ta đã tạo ra từ trước; khi nhân duyên đầy đủ quả thành hình, không phải cầu xin lạy van mà có quả tốt đến, không phải xua đuổi nài xin mà quả xấu chạy đi.

 Bởi vậy, bậc tri thức sợ gây nhân ác chứ không sợ quả xấu, còn phàm phu sợ quả xấu mà quên sợ gây nhân ác; cầu xin được ban phúc lành, nhưng chúng ta lại quên thi ân bố đức cho người khác. Cầu mong quả tốt, nhưng chúng ta lại không muốn gây nhân lành; sợ quả xấu, nhưng chúng ta lại hay suy nghĩ, nói năng, và làm những việc không đẹp không hay, thì cầu vô ích, lo sợ lại càng buồn khổ thêm.

 Nếu hiểu rõ nghiệp báo nhân quả rõ ràng rồi, chúng ta can đảm nhận quả khổ không sợ hãi buồn phiền, mình làm mình chịu, còn cầu xin cái gì, đâu cần hỏi han ai nữa; được như vậy, mê tín dị đoan sẽ tiêu tan.

 

2). Cách diệt trừ mê tín thứ hai:

 Nếu học Phật pháp căn bản đầy đủ rồi, chúng ta sẽ thấy rõ từ người đến vật đều do nhân duyên kết hợp mà thành. Vạn vật do nhân duyên hợp lại mà có, hết nhân duyên thì tan rã; những thứ ấy đều không có chủ thể, nghĩa là một mình nó không thể tự tồn tại được, mà sự còn của nó phải dựa nhờ vào thứ khác mới tồn tại được. Thân tâm chúng ta do sáu đại “đất, nước, gió, lửa, không, thức” hòa hợp với nhau mới sống còn được, thiếu một trong sáu thứ này thì thân xác tan rã; tất cả vạn vật đều như thế cả, chúng không có tự thể của chúng, nếu mỗi thứ có tự thể thì không cần các thứ khác vẫn sinh tồn mới đúng.

 Bản thể của mọi vật: đều không có tự thể của nó, nên nó là không, thân tâm không phải là ta, mọi vật mọi người không phải là của ta, là vô ngã, tất cả không thật, hư dối, nên không cần mong cầu, không lo sợ. Không mong cầu không sợ hãi đâu còn tham sống sợ chết, đâu cần hỏi thầy bói thầy tướng, đâu cần nhờ vả ông đồng bà cốt, đâu cần khấn lạy van xin qủy thần; dùng trí tuệ này dẹp tan mê tín như mặt trời giọi sương mai, như vậy chúng ta không còn bị trói cột bởi tà kiến dị đoan, và sống được yên ổn tự tại vậy.

 

3). Cách trừ mê tín thứ ba:

 Người Phật tử đã học biết “nghiệp báo nhân quả” rồi, người Phật tử đã học biết “vạn vật do nhân duyên hòa hợp mà có, không, vô ngã, vô thường” rồi; người Phật tử còn phải học biết những gì để áp dụng tu hành, tu nhân gì được sinh về đâu. Tu như thế nào được sinh lại cõi Người, sinh lên cõi Trời, hoặc không tu lại làm ác như thế nào bị đọa Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sinh, và tu như thế nào được giải thoát khỏi sinh tử luân hồi?

1- Làm sao được tái sinh lại cõi Người?

  Đức Phật đã dạy người Phật tử tại gia thụ Tam quy “Phật Pháp Tăng”, giữ Năm giới “Không sát sanh, không trộm cướp, không tà dâm, không nói dối, không rượu chè say sưa”. Chỉ có vậy thôi, chúng ta nếu muốn được trở lại làm người kiếp sau, phải ráng gìn giữ theo lời đức Phật đã dạy như thế.

2- Làm sao đươc sinh lên cõi Trời?

 Đức Phật dạy người nào muốn được sinh lên cõi Trời, sống sung sướng lâu dài, phải thực hành đầy đủ mười điều lành (thập thiện). Đó là ba điều về thân “Không sát sinh, không trộm cướp, không tà dâm”, bốn điều về miệng là “Không nói dối, không nói hai lưỡi, không nói lời thêu dệt, không nói lời độc ác”, và ba điều về ý là “Không tham lam ích kỷ, không sân hận đố kỵ, không ngu si tà kiến”.

3- Làm thế nào bị đọa vào cõi dữ? 

 Ba cõi dữ là Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sinh; Đức Phật dạy: “Người nào làm một trong mười điều ác (thập ác), Mười điều ác là: “sát sanh, trôm cướp, tà dâm, nói dối, nói hai lưỡi, nói thêu dệt, nói ác, tham lam, sân hận giân thù, ngu si tà kiến”; nếu không có nhân lành khác làm triệt tiêu việc ác ấy, chắc chắn sẽ đọa vào một trong ba cõi dữ.

4- Làm sao thoát khỏi sinh tử luân hồi?

 Đức Phật dạy vô số pháp môn tu, Phật tử nào tu, chỉ cần áp dụng thực hành một pháp môn là đủ để thoát khỏi sinh tử triền mien; nhưng trên nguyên tắc căn bản, tất cả mọi người tu hành đều phải tôn trọng mười điều lành trong khi tu hành, mới mong đạt được mục đích mong muốn.

Thí dụ, người niệm Phật A Di Đà tu pháp môn Tịnh độ, để được sinh về cõi cực lạc của đức Phật A Di Đà khi qua đời. Trong khi tu niệm phải thực hành đầy đủ tất cả những gì quy định cho pháp môn Tịnh độ, còn phải giữ gìn mười điều lành nữa, chứ không phải chỉ cần niệm Phật mà không cần để ý đến mười điều lành; những người tu các pháp môn khác cũng tương tự như vậy, mới có kết quả chắc chắn được.

 Như vậy, chúng ta đã biết rõ ràng và yên tâm tu tập pháp lành, và bóng dáng của người Phật tử lúc đó có một cuộc sống tươi mát tự tại. Việc gì đến chúng ta sẵn sàng nhận cho dù tốt hay xấu, cũng không làm tâm ta rộn lên, và như vậy sự mê tín chắc chắn không còn một tí ảnh hưởng nào trong tâm người Phật tử nữa.

 

IV). Đối phó nguy nan trong đời sống:

 Người Phật tử gặp hoạn nạn phải làm gì? Thí dụ trong gia đình mọi người đang sống yên vui, bỗng nhiên có một người bị bệnh nguy hiểm, phải làm sao? Trước hết mọi người trong gia đình phải bình tĩnh, nhận định phân tích, tìm nhà thương, Bác sĩ chuyên môn giỏi về bệnh ấy, để khám xét định bệnh cho rõ ràng. Mọi người nên an ủi người bệnh cho vững tinh thần, không lo sợ sẽ ảnh hưởng tốt cho việc chữa trị. Phải nghe lời Bác sĩ trong việc thuốc thang, ăn uống, kiêng cữ. Phải nhận ra việc bị bệnh là do nguyên nhân gì? Nguyên nhân gần như hút thuốc, uống rượu, ăn uống v.v…Nguyên nhân xa như đã có người trong huyết thống bị bệnh ấy v.v…Điểm căn bản của Phật giáo cần phải hiểu biết nghiệp báo nhân quả từ nhiều đời nhiều kiếp tích chứa đến ngày nay mới phát ra. Nhận biết như thế, sẽ yên tâm, bớt đi sự lo lắng, vì có lo lắng cũng không lợi ích gì hơn là một mặt chữa trị, một mặt làm việc lành, như phóng sinh, bố thí, ăn chay, niệm Phật Dược Sư Lưu Ly Quang, để có thể đưa tới việc gặp thầy gặp thuốc. Nếu bệnh khám phá ra quá trễ, không thể qua khỏi nguy nan, người bệnh phải hiểu lẽ vô thường, có nhân duyên hòa hợp mới có đời sống, hết nhân duyên sẽ tan rã thành không, vô ngã, thân chẳng phải là ta, chẳng có cái gì là của ta; người bênh suy nghĩ như vậy, quán chiếu như vậy sẽ đi vào định tâm, được giải thoát. Nếu không làm được như thế, bệnh nhân nên chuyển qua niệm Phật A Di Đà, để khi chết được nhẹ nhàng sinh về cõi cực lạc.

 Trong khi bệnh như thế, tuyệt đối không nghe người nói lời tà mị, đi coi thầy coi bói, hỏi đồng hỏi cốt, đeo bùa mang phép, giết hại sinh vật cúng ma vái qủy; lại càng không nên nghe lời dụ dỗ của người khác bỏ đạo Phật theo họ sẽ được vị thần linh nào đó có phép cứu khỏi bị chết; đó chỉ là những lời lừa bịp không khác gì thầy bói, thầy tướng, đồng cốt, cùng là một thứ mê tín như nhau, nhưng dưới một hình thức khác mà thôi. Những người đang trong hoạn nạn lo sợ cái chết gần kề dễ bị lừa dối đã từng xảy ra; thương thay những kẻ làm việc dối gạt người sẽ bị quả báo đọa địa ngục khi chết, không sao tránh khỏi!

 Nên nhớ, trong Bát Chính Đạo, về phần Chính Mệnh, đức Phật khuyên người Phật tử không nên hành nghề tà thuật, bùa chú v.v…để sinh sống là bởi lý do đó.,.

Toàn Không

Ý kiến bạn đọc
21 Tháng Hai 201715:25
Khách
rat hay va y nghia thiet thuc cho cuoc song.dao phat la dao giai thoat giac ngo.cot loi cua dao phat la luat nhan qua.bai viet tren phan anh dung tinh than dao phat- nam mo bonsu thich ca mau ni phat
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2211)
Tu tâmtìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm.
(Xem: 2640)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2517)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2321)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2633)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2417)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3227)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2298)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2392)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2517)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2451)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2523)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2180)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2568)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3032)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2634)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2685)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 2951)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2527)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2558)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4058)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2760)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3034)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3283)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2278)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2492)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2790)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 2981)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2855)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2597)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2614)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3177)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2585)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2261)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2372)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2467)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2583)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2670)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2724)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3250)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2545)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2120)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2579)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2035)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2805)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2882)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2915)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2689)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
(Xem: 2499)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2763)
Đời sống của con người thọ mạng nhiều lắm chỉ trên dưới trăm năm. Trong chuỗi thời gian này con người hưởng hạnh phúc không bao nhiêu,
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant