Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Ngày Xuân Đọc Luật

17 Tháng Giêng 201400:00(Xem: 10650)
Ngày Xuân Đọc Luật


Ngày Xuân Đọc Luật

 

ht_thien_sieu
Cố HT Thích Thiện Siêu

Mở đầu Tán Duyên Khởi của Luật Tứ Phần:

"Cúi đầu lễ Chư Phật

Tôn Pháp, Tăng tỳ-kheo

Nay diễn Pháp tì-ni

Để chánh pháp trường tồn."

(Luật Tứ Phần quyển 1, HT Thích Đổng Minh, Tr. 01, 2006)

Hình ảnh này. Âm thanh này, cứ mỗi nửa tháng học Tăng của Phật Học Viện Hải Đức, Nha Trang lại được nghe một lần. Ôn Từ Đàm tụng, Ôn Đổng Minh tụng, mà âm thanh đó, đi sâu vào lòng người. Xông ướp vào lòng người, cứ thế qua mấy mươi năm vẫn còn nhớ. Dáng dấp của Ôn Từ Đàm hiền từ, chậm rãi. Dáng dấp của Ôn Đổng Minh đường bệ, oai nghiêm. Nghe lời quí Ôn tụng mà thấm thía làm sao những lời Phật dạy: "Các con hãy lấy Giới luật làm Thầy." Hay "Giới luật còn, Phật pháp còn".

Bây giờ đọc lại Duyên Khởi - Luật Tứ Phần, chúng ta thấy hình ảnh một Thánh đệ tử cúi đầu đảnh lễ đức Phật. Đảnh lễ Giáo pháp. Đảnh lễ chúng Tăng. Trùng tuyên lại Giới luật để cho Chánh pháp được trường tồn. Thì ra Giới luật là mạng mạch của Tăng già. Là tuổi thọ của Phật pháp. Chúng ta nghe: "Tì ni tạng trụ Phật pháp diệc trụ". Ngày nào Giới luật còn được gìn giữ nghiêm minh thì ngày đó Phật pháp còn hiện hữu với đời một cách vững mạnh - Chánh pháp trường tồn. Hay "Tì ni tạng giả, Phật pháp kỷ cương Tăng già mạng mạch giả." Giới luậtkỷ cương của Phật pháp, là mạng sống của Tăng già. Giới là như thế. Luật là như thế. Như thế, có nghĩa là nguồn sống tự nhiên. Sức sống tự nhiên trên thân thể của Tăng già, trên tinh thần của Phật pháp. Thân thể Tăng già không được trang bị bằng Giới luậtthân thể Tăng già chết, không còn ý nghĩa của Tăng. Tinh thần Phật pháp không có Giới luật thì chẳng có thể gọi là tinh thần Phật pháp như lời Phật dạy.

Do vậy, dù bất cứ thế hệ Tăng nào, thời đức Phật còn tại thế hay cho đến hôm nay, Giới luật vẫn giữ một vị thế tối tôn, trọng yếu. Chúng ta nghe phần Tự Ngôn, Luật Tứ Phần quyển 1, Hòa Thượng Thích Nguyên Chứng viết: "Hòa Thượng (chỉ Ôn Đổng Minh, lời chú của người viết) là một số rất ít trong các Tỳ kheo trì luật của Tăng già Việt Nam kể từ khi Phật giáo được trùng hưng, Tăng thể được chấn chỉnh và khôi phục. Thế hệ thứ nhất trong phả hệ truyền thừa Luật tạng của Tăng già Việt Nam. Thời trùng hưng hiện đại bao gồm bóng mờ của nhiều bậc Thượng Tôn Trưởng lão, uy nghi đĩnh đạc nhưng khó hình dung rõ nét đối với các thế hệ tiếp bước theo sau. Các Ngài xứng đáng là bậc long tượng trong chốn tòng lâm, mà đời sống phạm hạnh nghiêm túc, phản chiếu giới đức sáng ngời, tịnh như băng tuyết, mãi mãi ghi dấu trên các nẻo đường hành cước, tham phương, hoằng truyền Chánh pháp."

Thế hệ của cha ông, Thầy Tổ có một đời sống tu hành, phạm hạnh, tịnh như băng tuyết, chính đó là đời sống hướng thượng, đời sống của những bậc Thánh xuất trần, ly dục tịch tịnh. Đời sống ấy là nhân tố, yếu tính làm hưng long Tam Bảo, Phật pháp hoằng viễn.

Từ cuộc sống tịnh như băng tuyết, vững chắc như lõi cây trong chốn rừng Thiền đó là hình dung đời sống của các thế hệ kế thừa, hàng hậu học có tìm ra được những bậc long tượng, kỳ vĩ để chống đỡ ngôi nhà Phật pháp. Bởi vì, đời sống của hàng Tăng già cách Phật lâu xa, bị mỏi mòn hương vị giải thoát, phai nhòa Pháp lạc, bị thế gian lôi cuốn, hâm hở vật dục, lợi danh mà quên đi con đường cao thượng của sự tu tập, lý tưởng của sự giải thoát, từ đó vong thân trong nếp sống đạo hạnh.

Đứng trước mối hiểm họa, tàn phá ngôi nhà tâm linh của những vật chất, danh tướng thế gian, Hòa Thượng cho chúng ta thấy: "Trước sự tàn phá của các giá trị đạo đức truyền thống càng lúc càng trầm trọng diễn ra khiến các cộng đồng xã hội đang mất dần tính tự chủ, dễ bị tha hóa theo những giá trị vật chất; những tín điều đạo đức tôn giáo mới càng lúc càng trở thành tiêu chuẩn cho văn minh tiến bộ theo hướng vật dụcnuôi dưỡng tinh thần cuồng tín và kỳ thị. Sự phá sản tinh thần không chỉ xảy ra trong một phạm vi xã hội, mà nó lan dần đến cả trong sinh hoạt Thiền Môn. Thanh quy của Thiền môn chỉ còn là một lớp vỏ, mà lại là lớp vỏ rách nát không đủ che đậy những dấu hiệu thoái hóa. Tăng già đang trên chiều hướng tục hóa có nguy cơ trở thành một cộng đồng ô hợp tồn tại chỉ vì quyền lợi vật chất thế gian. Trên những lối đi đầy gai gốc của rừng Thiền bấy giờ, vẫn luôn luôn ẩn hiện những dấu chân long tượng dấn bước tìm lại lối mòn cổ đạo, đồng thời thuận hướng với trào lưu lịch sử của đất nước và nhân loại. Đó là những bước đi tái khai phá, dò dẫn một cách thận trọng." (Luật Tứ Phần, quyển 1, Tự Ngôn, Tr viii - Thích Nguyên Chứng).

Từ những trào lưu phóng thể của thời đại có nguy cơ tác động làm di hại đời sống Tăng già. Chúng ta bình tâm đọc lại những lời Chư Phật dạy trong Giới luật để thấy lòng từ bi của Chư Phật đối với chúng ta. Chư Phật đã ân cần giảng dạy, chỉ bày cách hành xử với mọi người cho được tốt đẹp. Cách xây dựng đời sống thanh cao cho tự thân. Cách giữ gìn của hai đời sống tự thân và tha nhân được hoàn mỹ. Từ đó mà hướng thân lập mệnh trên con đường tu chứng, cứu mình, độ người qua biển trầm luân.

Những lời giảng dạy của bảy Đức Phật, từ thời đức Phật Tỳ Bà Thi cho đến đức Phật Thích Ca Mâu Ni trong giới kinh giống như tiêu chỉ nguyệt - ngón tay chỉ mặt trăng, nương nơi đó, phương tiện nơi đó mà được rốt ráo, cứu cánh.

 

1. Đức Phật Tỳ Bà Thi dạy:

"Nhẫn nhục đệ nhất đạo

Phật thuyết vô vi tối

Xuất gia não tha nhơn

Bất danh vi sa môn."

Dịch: Hạnh nhẫn nhụccon đường bậc nhất

Đức Phật dạy: Niết bàntối thượng

Người xuất gia mà làm não hại kẻ khác

Thì chẳng xứng gọi là bậc sa môn.

 

2. Đức Phật Thi Khí dạy:

"Thí như minh nhãn nhơn

Năng tị hiểm ác đạo

Thế hữu thông minh nhơn

Năng viễn ly chư ác"

Dịch: Ví như người có đôi mắt sáng

Hay tránh khỏi các đường xấu hiểm

Bậc thông minhtrong đời

Hay tránh xa mọi điều xấu ác.

 

3. Đức Phật Tỳ Xá Phù dạy:

"Bất báng diệc bất tật

Đương phụng hành ư giới

Ẩm thực tri chỉ túc

Thường lạc tại không nhàn

Tâm định lạc tinh tấn

Thị danh chư Phật giáo."

Dịch: Không báng bổ, không có tật đố

Phụng hành trong các học giới

Ăn uống chỉ biết vừa đủ

Thường ưa ở chỗ nhàn tịnh

Tâm an tịnh, vui tinh cần

Ấy lời chư Phật dạy.

 

4. Đức Phật Câu Lưu Tôn dạy:

"Thí như phong thể hoa

Bất hoại sắc dự hương

Đản thủ kỳ vị khứ

Tỳ kheo nhập tụ nhiên

Bất vị lệ tha sự

Bất quán tác bất tác

Đản tự quán thân hành

Nhược chánh nhược bất chánh."

Dịch: Thí như ong hút mật hoa

Không làm hư sắc và hương

Chỉ hút mật rồi bay đi

Tỳ kheo đi vào xóm làng

Không chống trái việc làm của người

Có làm hay không làm

Chỉ xét hành vi của mình

Là chân chánh hay không chân chánh.

 

5. Đức Phật Câu Na Hàm Mâu Ni dạy:

" Tâm mạc tác phóng dật

Thánh pháp đương cầu học

Như thị xã ái sầu

Tâm định nhập Niết Bàn."

Dịch: Đừng để tâm mình buông lung

Nên siêng năng học Thánh pháp

Như vậy là bỏ ái sầu

Tâm định tĩnh nhập Niết bàn.

 

6. Đức Phật Ca Diếp dạy:

"Nhất thiết ác bất tác

Đương phụng hành chư thiện

Tự tịnh kỳ chi ý

Thị danh chư Phật giáo"

Dịch: Tất cả các việc ác chớ làm

Nên làm tất cả các việc thiện

Tự lóng sạch tâm ý

Ấy là lời chư Phật dạy.

 

7. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni dạy:

"Thiện hộ ư khẩu ngôn

Tự tịnh kỳ chi ý

Thân mạc tác chư ác

Thừa tam nghiệp đạo tịnh

Năng đắc Như Lai hành

Thị đại tiên nhân đạo"

Dịch: Khéo gìn giữ lời nói

Tâm ý được thanh tịnh

Thân không làm điều ác

Ba nghiệp được trong sạch

Thực hành tốt như vậy

Là Đạo của bậc Tiên nhân.

Ba ngày Tết đọc lời Phật dạy trong Giới kinh để nhớ lời của Ôn Trí Nghiêm giảng Luật nơi Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang: "Tui chỉ cần quí Thầy thanh tịnh cứ mỗi nửa tháng tới thôi." và lới của Ôn Đổng Minh - người được tán thán "Tịnh Như Băng Tuyết" nói: "Các Thầy học Luật là để thấy mình có tăng tiến trên con đường tu tập hay không, chứ không phải học Luật để có mặc cảm tội lỗi."

Ngoài kia, trước sân chùa, nhánh mai vàng tươi thắm đong đưa với gió xuân như tinh khôi tự thuở nào. Như hằng hữu tự thuở nào. Trên dòng thời gian sinh diệt, có nhánh mai vàng bất sanh bất diệt trên dòng thời gian sinh diệt, thiên lưu.

San Diego, ngày 5 tháng 1 năm 2013

Nguyên Siêu

 

Ngày Xuân Thắp Hương Tưởng Niệm

Nguyên Siêu

 

Ôn Già Lam

 

Trái tim Ôn nồng ấm

Nuôi lớn đàn con

Chọn người làm Phật

Phật đất. Phật đồng

Phật trong tự tánh

Tánh thiện, tánh lành

Tánh như hư không

Ôn dang đôi tay ôm tròn tuổi trẻ.

Tuổi già lụi tàn

Măng mọc đầu non

Ước mộng vuông tròn

Ôn về với Phật.

(PHV Hải Đức - Nha Trang 1973)

 

Đêm khuya Ôn lạy Phật

Từng lời, từng lời Kinh

Nuôi lớn đàn hậu sinh

Thành Tăng tài cho Đạo

Bước chân Ôn nhẹ dạo

Rạng rỡ ngọn Thiền quynh

Nghiêng mình, khuynh tâm

Một đời đền đáp

Công ơn nuôi dưỡng

Sáng tợ trăng rằm.

(Tu viện Quảng Hương Già Lam, Sài Gòn - 1980)

 

Ôn Đổng Minh

 

Chống gậy Ôn qua triền núi

Đôi dép mòn ba tháng an cư

Con ốc nhỏ nằm bên bờ suối

Dõi nhìn theo dáng điệu hiền từ

Gập gềnh sỏi đá

Con đường chân như

Ôn đi một sớm phù hư

Ôn về cốc núi ẩn cư tu hành.

(Chùa Tỉnh Hội Nha Trang - 1971)

 

Ôn Trường San

 

Ôn như ánh trăng rằm

Dung nhan Ôn đẹp lạ

Giám sự một lòng thành

Qua bao nhiêu mùa hạ

Ve sầu kêu rĩ rã

Bát Nhã tát bà ha

Ngày tháng cứ trôi qua

Ôn là quả núi già

Kiên cốvững chãi

Độ người số hằng sa

Nhất niệm Di Đà

Ôn về với Phật.

 

(Giám sự PHV Hải Đức Nha Trang - 1970)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2531)
Vô ưu, Phạn ngữ Asoka, Hán ngữ phiên âm A du ca, A thúc ca, A thuật ca… dịch nghĩa là Vô ưu hoa, hoa không ưu tư phiền muộn.
(Xem: 2220)
Tu tâmtìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm.
(Xem: 2656)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2522)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2346)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2661)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2434)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3247)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2320)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2410)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2534)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2467)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2536)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2193)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2578)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3046)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2647)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2707)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 2988)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2552)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2590)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4087)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2768)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3064)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3305)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2286)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2500)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2803)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 2999)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2868)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2605)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2628)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3188)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2595)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2270)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2383)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2475)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2595)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2685)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2743)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3265)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2556)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2128)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2596)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2050)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2817)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2902)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2937)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2708)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
(Xem: 2509)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant