Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đạo Phật - Một Nhãn Quan Hiện Đại

03 Tháng Ba 201400:00(Xem: 10229)
Đạo Phật - Một Nhãn Quan Hiện Đại


Đạo Phật - Một Nhãn Quan Hiện Đại

 

Tiến sĩ PETER D. SANTINA
Thích Tâm Quang dịch

 

thienthuthiennhanTùy theo dân tộc và văn hóa khác nhau, người ta hiểu Phật Giáo một cách khác nhau, và đặc biệt chúng tôi nghĩ rằng chúng tôi có thể đối chiếu hai thái độ khác nhau giữa quan điểm Tây Phươngquan điểm truyền thống Á Đông đối với Phật Giáo. Cách nghiên cứu theo nguyên tắc phối cảnh này hữu ích, bởi vì khi chúng ta hiểu được cách nhìn của mỗi dân tộc có văn hóa khác nhau về một số điều nào đó, chúng ta mới thấy được sự hạn chế hay tính chất một chiều trong cách nhìn của chúng ta.

Tây Phương, Phật Giáo đang được chú ý và gây được thiện cảm rộng rải khắp nơi. Nhiều người có địa vị đáng kể trong xã hội Tây PhươngPhật Tử hoặc có những người không phải là Phật Tử nhưng rất có cảm tình với Phật Giáo. Thí dụ cụ thể nhà bác học Albert Einstein đã nhận xét trong bài tự thuật rằng ông là người không tôn giáo, nhưng nếu ông là một người có tôn giáo thì ông phải là người Đạo Phật. Điều này đáng ngạc nhiên, vì chúng ta không thể ngờ một cha đẻ của khoa học hiện đại lại có một ý kiến như vậy. Nhìn vào xã hội Tây Phương hiện nay, chúng ta thấy một nhà vật lý-thiên văn học là một Phật Tử tại Pháp, một nhà tâm lý học nổi tiếngPhật Tử tại Đại Học La Mã, và mới đây một vị chánh án tại Anh Quốc cũng là Phật Tử. Chúng ta hãy xét kỹ những lý doPhật Giáo được chú ý tại Tây Phương hiện nay. Trước khi xét, chúng tôi xin so sánh tình hình nơi đây với những nơi khác trên thế giới. Nói chung, tại Âu Châu, thái độ quan tâm đến Phật Giáotôn giáo này rất thực tiễn, rất hữu lý, và rất tinh vi. Cho nên, chúng tôi ngạc nhiên khi đến một quốc gia Á Châu mà lại thấy người dân tại đây coi Phật Giáo như một tôn giáo lỗi thời, không hợp lý và quá nhiều liên hệ tới mê tín dị đoan. Đó là một trong hai quan niệm khác nhau về giá trị Phật Giáo. Và quan niệm khác lại cho rằng Phật Giáo quá sâu xa, trừu tượng và khó hiểu. Đây là một sự đổi hướng hoàn toàn trái ngược. Do đó, chúng tôi muốn đưa ra bối cảnh nhãn quan của con người Tây Phương một hình ảnh về Phật Giáo. Còn đối với nhãn quan truyền thông, ta lại có một hình ảnh khác nữa. Trước hết, hình ảnh tiêu cực của Phật Giáo phải được thay đổi, chúng ta mới có thể thực sự hiểu rõ giá trị lời Đức Phật dạy, và chúng ta mới có thể có một quan niệm đứng đắn một cách toàn bộ về Phật Giáo.

Điều trước tiên, người Phương Tây nhận ra giá trị của Phật GiáoPhật Giáo không gắn liền với một nền văn hóa nào, không ràng buộc vào một xã hội, vào một chủng tộc hay vào một nhóm thiểu số nào. Có những tôn giáo gắn liền với văn hóa, chẳng hạn như Do Thái Giáo, nhưng Phật Giáo thì lại không. Cho nên trong lịch sử Phật Giáo, ta thấy có Phật Tử Ấn, Thái, Trung Hoa, Tích Lan, Miến Điện, vân vân... và chúng ta sẽ có Phật Tử Anh, Phật Tử Hoa Kỳ, Phật Tử, Pháp, vân vân...Đó là vì lý do Phật Giáo không gắn bó với một nền văn hóa nào.

Phật Giáo hội nhập dễ dàng vào bất cứ nền văn hóa nào vì lẽ Phật Giáo chỉ chú trọng đến việc CHUYỂN HÓA NỘI TÂM hơn là hình tướng bên ngoài. Phật Giáo nhấn mạnh đến phương cách TRAU DỒI TRÍ TUỆ hơn là cách thức ăn mặc hay trang điểm của bạn, vân vân...

Điều thứ hai mà chúng tôi muốn nói đến là TÁNH THỰC TIỄN hay thực dụng của Phật Giáo. Thay vì lưu ý đến siêu hình học hay các lý thuyết trừu tượng, Đức Phật đề cập những vấn đề bản thângiải thích các vấn đề này một cách cụ thể. Đó cũng là điều mà người Tây Phương rất tán đồng về thuyết thực tiễn (tính cách thực dụng), nghĩa là vật gì tốt thì mới dùng. Đó là phần lớn các đường lối về chính trị, kinh tế, triết lý và khoa học của người Tây Phương. Thái độ thực tế này được Đức Phật trình bày rành mạch trong Kinh Culama-Lunkya trong thí dụ về một người bị thương. Một người bị trúng tên muốn biết kẻ nào đã bắn, bắn từ hướng nào, đầu mũi tên làm bằng xương hay bằng thép, cây cung làm bằng loại gỗ gì, và nhiều điều khác nữa trước khi hắn cho rút mũi tên ra. Kẻ này không khác gì những ai muốn biết nguồn gốc của vũ trụ, thế giớibất diệt hay không và hữu hạn hay không, trước khi thực hành tôn giáo. Giống như vậy, kẻ đó sẽ chết trước khi được nghe những câu trả lời về nguồn gốc và tính chất của mũi tên, thì chẳng bao giờ được nghe thấy câu trả lời về những câu hỏi không thích đáng đó. Thí dụ trên cho chúng ta gọi thái độ của Phật Giáo là một thái độ thực tiễn. Có nhiều điều cần phải đặt ưu tiên để nêu câu hỏi và lý giải vấn đề. Chúng ta không thể mở mang trí tuệ nếu chúng ta có những câu hỏi lầm lẫn vô bổ. Câu hỏi ưu tiên phải thiệt thực. Câu hỏi có ưu tiên phải thiệt thực. Câu hỏi ưu tiên của tất cả chúng tavấn đề KHỔ ĐAU. Đức Phật biết rõ về điều này và dạy chúng ta chẳng cần bàn đến thế giới này trường cửu hay không, vì mỗi người trong chúng ta đều có một mũi tên trong ngực, đó mũi tên của KHỔ ĐAU. Chỉ có thế thôi! Trong đời sống hàng ngày, chúng ta luôn luôn có những việc ưu tiên cần phải làm. Ví dụ có khi ta phải luộc đậu trên lò. Trong khi chờ đợi đậu sôi, chúng ta phải đi quét nhà, và khi đang quét nhà thì bỗng ngửi thấy mùi khét. Vì vậy chúng ta phải có sự lựa chọn, hoặc cứ quét nhà, hoặc đi vặn lửa xuống để đậu khỏi cháy. Cũng như vậy, muốn khai mở trí tuệ, chúng ta cần phải biết điều nào là ưu tiên cần phải làm và điều này đã được giải thích rõ ràng trong câu chuyện về người bị thương.

Điểm thứ ba, chúng tôi muốn nêu ra lời dạy của Đức Phật về tầm quan trọng của việc THỰC CHỨNG qua kinh nghiệm bản thân. Điểm này được Đức Phật trình bày rõ ràng trong lời khuyên của Ngài đối với những người Kalamas trong kinh Kesaputtiya. Những người Kalamas cũng giống như những người văn minh hiện nay khi thấy có quá nhiều giáo lý khác biệt. Họ tìm đến Đức Phật và hỏi Ngài rằng có quá nhiều vị thầy và vị nào cũng cho lý thuyết của mình là đúng. Vậy, làm sao biết được ai là người nói đúng sự thật. Đức Phật bào họ không nên chấp nhận điều gì – vì quyền lực, vì đã được ghi lại, vì sự kính nể tôn trọng sư phụ của mình, vì là truyền thống, hay vì có vẻ hữu lý. Mà muốn biết điều đó đúng hay sai, chúng ta cần phải dùng kinh nghiệm bản thân để trắc nghiệm nó. Khi nhận thấy các điều đó đem lại lợi ích, hạnh phúcan lành, thì nên theo. Đức Phật lại dạy rằng chúng ta nên suy xét mọi điều nghe thấy bằng chính kinh nghiệm bản thân của mình.

Trong phạm vi lời khuyên của Đức Phật đối với những người Kalamas, chúng tôi nghĩ rằng ý Ngài muốn nói là hãy dùng trí óc mình như một ống thử nghiệm. Bạn có thể tự nhìn thấy nơi bạn những điều tham, sân hiện hữu dẫn đến khổ sở, đau đớn, và lo âu. Và bạn cũng tự nhận thấy nơi bạn niềm an lạchạnh phúc khi tham sân không còn ở trong tâm. Đó là việc thực hành đơn giảnmọi người trong chúng ta, ai cũng đều làm được. Điều này rất quan trọng, bởi những điều mà Đức Phật dạy, chỉ hữu hiệu, và thực sự thay đổi cuộc sống của chúng ta, nếu chúng ta thực hành lời dạy của Ngài, nếu chúng ta nhận thức được chân lý lời dạy của Phật qua kinh nghiệm bản thânkiểm điểm thành quả của nó. Lúc bấy giờ, chúng ta mới dám nói là chúng ta đã tiến bộ trên con đường giác ngộ.

Chúng ta có thể thấy sự tương đồng trong phương cách lý giải giáo pháp của Đức Phật và khoa học. Đức Phật nhấn mạnh về tầm quan trọng trong việc QUAN SÁT mục tiêu. Quan sátý thức then chốt về phương pháp khai sáng trí tuệ của Đức Phật. Chính do sự quan sát đó đem lại bốn chân lý đầu tiên – Tứ Diệu Đếchân lý khổ đau. Lại nữa, trong Đế cuối cùng, chính sự quan sát đem lại kết quả trong việc thực hành để chấm dứt hẳn khổ đau. Vì vậy, trong Đế Thứ Nhất, Đế Thứ Hai và Đế Thứ Tư, quan sát đóng một vai trò vô cùng quan trọng. Đó cũng tương tự như vai trò quan sát mục tiêu theo truyền thống khoa học khi xét nghiệm một vấn đề, chúng ta cần phải soạn thảo một lý thuyết chung và một giả thuyết riêng biệt. Nơi đây, chúng ta thấy có sự tương đồng trong việc giảng dạy về Tứ Diệu Đế. Theo lý thuyết chung, mọi việc đều có nguyên nhân. Và theo giả thuyết riêng biệt, nguyên nhân của khổ đau là tham dụcvô minh. Chân lý về khổ đau là vì tham dụcvô minh, có thể kiểm chứng bằng phương pháp thực nghiệm. Về Tứ Diệu Đế, phương pháp thực nghiệm là con đường tu tập thực hành. Đế Thứ Hai (nguyên nhân của khổ đau) và Đế Thứ Ba (chấm dứt khổ đau) được xác minh qua việc tu tập thể nghiệm Tứ Đế, ta có thể loại trừ tham dụcvô minh. Và khi ta loại trừ tham dụcvô minh, ta loại trừ được đau khổ. Việc thử nghiệm này cứ lập đi lập lại giống như trong khoa học, vì lẽ đó, không riêng Đức Phật diệt tận khổ đau mà tất cả những ai theo con đường của Ngài cũng đều chấm dứt khổ đau.

Nếu ta nhìn kỹ tri kiến lý giải của Đức Phật, chúng ta thấy phương cách, hay giáo pháp của Ngài tương tự như cách lý giải của khoa học, điều này đã khiến người Phương Tây hết sức lưu tâm. Bây giờ, chúng ta mới hiểu, tại sao mà nhà Bác Học Einstein đã có nhận định như trên. Chúng ta thấy nhận xét này không gì lạ như đã tưởng lúc ban đầu. Chúng tôi muốn nói đến giáo pháp lý giải rõ ràng của Đức Phật, và khi đọc kỹ giáo pháp của Ngài, chúng ta thấy, đó là phương cách thực nghiệm thể chứng thực tiễn.
Thể nghiệm, hay kinh nghiệm, trong Phật Giáo gồm hai phần – KHÁCH QUAN và CHỦ QUAN. Nói một cách khác, đó là cách chúng ta nhận định mọi việc chung quanh ta. Cái đặc biệt của Phật Giáophương pháp lý giải nhắm vào lãnh vực triết lý và tâm lý. Điều đó có nghĩa là Đức Phật đã phân sự thể nghiệm vào Năm Uẩn căn bản: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành và Thức. Năm Uẩn này được phân thành 18 thành phần (Dhatus, Giới = 6 căn + 6 trần + 6 thức) và có thể phân ra thành 72 thành phần (Pháp).

Phương pháp này có thể lý giải qua sự phân tích quan sát đến tận cùng của sự vật. Một khi chúng ta chưa hài lòng với một việc gì mù mờ, chúng ta cần phải cứu xét và phân tích ra thành từng phần nhỏ như tháo gỡ một cỗ xe dần dần đến bánh xe và trục xe, vân vân... Ví dụ khi ngắm một bông hoa, chúng ta thấy đó là kết quả của duyên hợp. Đó là phương cách lý giải phân tích. Lại nữa phương pháp lý giải phân tích này không có gì lạ đối với khoa học và triết học hiện đại. Chúng ta thấy phương pháp lý giải phân tích rất nhiều trong khoa học. Trong triết học, chúng ta thấy truyền thống lý giải phân tích cao nhất ở Bertrand Russell. Nhiều nghiên cứu đã thành công trong việc so sánh triết học Bertrand Russell và Vi Diệu Pháp (Abhidarma) của Phật Giáo. Phương pháp lý giải phân tích trong triết học và khoa học Tây Phương, tương đồng với phương pháp lý giải phân tích của Phật Giáo. Điều này cũng chính lại là những nét đặc biệt đã lôi cuốn các tư tưởng gia và các nhà khoa bảng Tây Phương hướng về Phật Giáo. Trong lãnh vực tâm lý, những nhà tâm lý học ngày nay, lưu ý sâu xa đến sự phân tích lý giải của Phật Giáo về những yếu tố kinh nghiệm như cảm xúc, tư tưởng, thói quen, vân vân... Hiện nay họ đang tìm đến giáo lý của Phật Giáo hầu thâm nhập quán sát nội tâm nhiều hơn trong tinh thần kỷ luật tự giác của chính họ.

Việc chú trọng ngày càng tăng về những giáo lý hấp dẫn của Đạo Phật, cùng với khuynh hướng mới của khoa học về triết họctâm lý hiện đại, đưa khoa Lượng Tử Vật Lý Học lên cao tột đỉnh. Đó là những triển khai cuối cùng của những lý thuyết vật lý đã được thể-nghiệm. Rồi chúng ta thấy, không những Đức Phật đã tiên đoán những phương pháp phân tích lý giải của khoa học, mà còn dạy rõ về bản chất của con ngườivũ trụ như đã nói trong phần triển khai gần nhất của Vật Lý Lượng Tử. Cách đây không lâu, một nhà vật lý học nổi tiếng nhận xét, vũ trụ giống như một tâm tưởng vĩ đại. Điều này đã được nói trong Kinh Dhammapada (Kinh Pháp Cú): “Tâm dẫn đầu mọi pháp, tâm làm chủ, tâm tạo tác”. Sự liên hệ giữa vật chấtnăng lượng cũng đã được nói đến. Không có sự phân chia cơ bản nào giữa tâm và vật. Tất cả những dấu hiệu đó ngày nay càng được tuần tự khám phá ra bởi những tiến bộ mới nhất của khoa học.

Cho nên, điều cho thấy trong học trình của Tây Phương, các nhà tâm lý học và khoa học đã tìm thấy truyền thống Đạo Phật Giáo phù hợp với những nguyên tắc căn bản về tư tưởng khoa học của Tây Phương. Thêm vào đó, họ nhận thấy Phật Giáo rất đặc sắc, vì những phương pháp và phát minh của họ thường rất tương đồng với Phật Giáo. Họ cũng nhận ra, cho đến nay, khoa học đã không mở ra được con đường nào, hay phương pháp nào, để có thể hoàn tất được việc chuyển hóa nội tâm. Họ chỉ có những phương thức xây dựng, cải tiến các thành phố, xa lộ, nhưng họ không có một hệ thống nào để có thể xây dựng con người tốt lành hơn được. Cho nên người Tây Phương quay về với Phật Giáo.

Là một truyền thống lâu đời, Phật Giáo có nhiều khía cạnh gần giống như việc thực hành trong truyền thống khoa học Tây Phương, nhưng Phật Giáo vượt qua truyền thống duy vật của Tây Phươngvượt qua giới hạn của truyền thống khoa học.

 

Tiến sĩ PETER D. SANTINA
Thích Tâm Quang dịch

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8838)
Khuyến khích mọi người trong gia đình ta thọ năm giới, thì ngày đó là ngày hạnh phúc nhất trong cuộc đời ta, vì gia đình ta sẽ được duy trì, và cuộc sống gia đình đơn giản...
(Xem: 10300)
Đức Đạt Lai Lạt Ma từng dạy rằng tiền bạc không mang lại hạnh phúc, vì hạnh phúc thuộc về lãnh vực tinh thần
(Xem: 11162)
Tất cả những lời giáo huấn của Đức Phật được hướng tới việc đạt đến giải thoát khỏi vòng sinh tử
(Xem: 11146)
Các con phải cố gắng niệm Phật, bởi vì công đức niệm Phật rất lớn. Đó chính là áo giáp an toàn nhất có thể che chở cho các con chứ không phải ba mẹ hay của cải vật chất.
(Xem: 10119)
... người ta có thể đoán chiếc thuyền con ấy chính là nhà của lão, vì lão phơi thuốc, xắc thuốc, nấu thuốc ngay trên đó.
(Xem: 11903)
Phái đoàn chúng tôi gồm 34 người đã thực hiện chuyến hành hương Hàn Quốc - Đài Loan - Singapore, dưới sự hướng dẫn của trưởng đoàn Thầy Hạnh Giới.
(Xem: 11694)
Chỉ riêng Phật Học Viện Hải Đức Nha Trang, dù thịnh hay suy, tiếng chuông sớm khuya vẫn không hề gián đoạn, hay tắt lịm giữa đêm tối vô minh.
(Xem: 11741)
Trong cả thành phố này, anh chị chỉ có tôi là chỗ thân nhất, vừa là thầy vừa là bạn. Buổi sáng anh gọi phone bảo trưa nay đến đón tôi về nhà dùng cơm cho vui.
(Xem: 10222)
Hoàng tử Bồ-Đề-Đa-La thả lỏng giây cương. Con bạch mã thong dong bước qua cổng hoàng thành, đi về phía hoàng cung. Đám lính lệ cúi rạp, đỡ hoàng-tử xuống ngựa.
(Xem: 9521)
Cha mẹ chúng tôi thương yêu, kính thuận nhau, và cũng hết mực thương yêu con trẻ, không bao giờ có ý ngăn cản sự góp mặt chào đời của mỗi đứa chúng tôi trong gia đình ấy.
(Xem: 10374)
Thuở đó, tăng đoàn thường ba Y, một Bát, từng bước chân trần hoằng hóa đó đây, đêm nghỉ trong rừng, tìm gốc cây êm mát, gối đầu mà ngủ.
(Xem: 9837)
Tập quán lì xì của người Việt chúng ta thực sự bắt nguồn từ một truyền thống lâu đời của Trung Quốc...
(Xem: 11866)
Ta đưa đôi mắt thiền quán nhìn sâu vào danh tướng, để thấy rõ danh tướng có làm cho ai khổ đau không? Danh tướng không làm cho ai khổ đau cả, mà danh tướng cũng không làm cho ai hạnh phúc hết.
(Xem: 11552)
Như từ một đống hoa tươi, Lựa ra ghép lại cho đời tràng hoa, Nhiều tràng phô sắc mặn mà, Người đời cũng vậy khác xa đâu nào
(Xem: 10591)
Mỗi ngày khi vừa thức giấc, Hãy nghĩ rằng, May mắn thay hôm nay, Tôi đã thức dậy, Thấy mình vẫn còn sống, Vẫn giữ được sự sống quý giá của con người.
(Xem: 11905)
Khắp nơi trong cõi dương gian, Hận thù đâu thể xua tan hận thù, Chỉ tình thương với tâm từ, Làm tiêu oán hận, giải trừ hờn căm, Đó là định luật ngàn năm.
(Xem: 10328)
“Khi tôi trông thấy một con vật dường như ngu đần mà lại biết khóc, cặp mắt của nó còn lộ vẻ đầy hãi sợ và buồn khổ, tôi bỗng rùng mình!”
(Xem: 10550)
Cứ mỗi lần nhìn bức thư pháp nơi chánh điện chùa Phổ Từ, tôi lại nhớ đến Sư Ông. Không những qua hàng chữ mường tượng ra bóng dáng người mà trong nét bút màu mực lưu lại như còn văng vẳng lời nhắc nhở tràn đầy ưu ái của Sư Ông đối với tôi và mọi người.
(Xem: 10763)
Bài chuyển ngữ dưới đây được trích từ một quyển sách của nhà sư Thái Lan Ajahn Mun (1870-1949), mang tựa là Muttodaya (Un Coeur Libéré/A Heart Released/Con Tim Giải Thoát).
(Xem: 11589)
Bài chuyển ngữ dưới đây được trích từ một quyển sách mang tựa Con tim giải thoát (A Heart Released) của nhà sư Thái Lan Ajahn Mun (1870-1949).
(Xem: 12336)
Ngạn ngữ Tây phương nói: “ Cái Tôi là cái đáng ghét” ( Le moi est haissable). Mặc dù là một câu nói được nhiều người biết, nhưng đó mới chỉ là nhận xét hời hợt về cái gọi là Cái Tôi.
(Xem: 10194)
Cho, không phải chỉ là làm vui kẻ đón nhận; mà còn là một thái độ, một nghệ thuật sống ở đời để có hạnh phúc...
(Xem: 9825)
Khi đức Phật dạy về Khổ thánh đế, Ngài nói đến năm uẩn; Ngài muốn cho chúng ta biết và thấy năm uẩn...
(Xem: 10461)
... ngài Đạt Lai Lạt Ma đã bắt đầu một ngày của mình bằng việc lễ lạy. Từ tư thế đứng, ngài buông dài người ra sàn nhà, với chỉ một tấm đệm mỏng trải trên tấm ván đủ cho phần thân mình.
(Xem: 9692)
Tại một ngôi trường tiểu học trong một thị trấn nhỏ ở Hoa Kỳ hôm nay là ngày đầu tiên khai giảng cho năm học mới...
(Xem: 11322)
Nụ cười của Ngài thật là tinh tế. Thế nhưng tại sao Ngài lại mỉm cười? Có phải đấy là một thể dạng phúc hạnh mà Ngài cảm nhận được trong khi thiền định hay chăng?
(Xem: 9950)
Con người đau khổ bởi sinh già bệnh chết, tâm đau khổphiền não tham sân si, mạn, nghi, ác kiến.
(Xem: 12038)
Ngủ nghỉ mới thức dậy, xin nguyện cho chúng sanh, có trí giác hoàn toàn, nhìn rõ khắp mười phương...
(Xem: 9731)
Mãi cho đến mấy chục năm sau, Thầy mới tìm ra được hình ảnh của một vị Thầy đích thực, một vị Bổn Sư. Bổn Sư chỉ có nghĩa là "Thầy của tôi" thôi.
(Xem: 22060)
30 năm qua được coi là quá đủ cho một thế hệ tiếp nối. Nếu không được ghi lại, kể lại thì lớp người sau chắc chắn sẽ đi vào quên lãng hay hiểu một cách lờ mờ hoặc qua trung gian một người khác kể...
(Xem: 10263)
Thi phẩm “Hạt Cát Mịn” như bản tóm lược, hay nói khác thì đây là công trình “Thi Hóa Duy Thức Học” để làm tài liệu tu học. Một môn học quan trọng bậc nhất đối với người học Phật.
(Xem: 9530)
Gió mùa thu năm nay, trở nên khô khốc, ảnh hưởng bởi nạn hạn hán trầm trọng nhất trong nhiều thập kỷ qua ở xứ này.
(Xem: 10278)
Đức Phật luôn gợi nhắc cho chúng ta rằng mỗi người chúng ta đều sở hữu các khả năng và phẩm chất tốt đẹp, cần phải biết vận dụng và phát huy để làm cho cuộc sống trở nên giàu sang hiền thiện...
(Xem: 16761)
Đạo sư nói: "Tôi cũng là một người du lịch qua cuộc đời này nên không mang theo đồ đạc gì nhiều".
(Xem: 14374)
“Mùa Xuân bỏ vào suối chơi, Nghe chim hát núi gọi trời xuống hoa, Múc bình nước mát về qua, Ghé thôn mai nọ, hỏi trà mạn xưa”
(Xem: 10327)
Người tụng kinh lâu ngày sẽ hiểu ý kinh, Người niệm Phật lâu ngày sẽ thấy cảnh Phật...
(Xem: 9305)
Triều Nguyên sinh năm 1953 tại Đại Lộc, Quảng Nam, bên bến sông Thu Bồn lồng lộng gió nắng, ngan ngát hương đồng cỏ nội.
(Xem: 9385)
“Khi một ý xấu vừa manh nha, biết ngay tai họa của nó, ta liền giữ chánh niệm như cây bám chặt vào đất”.
(Xem: 13116)
Phật giáo đã có ít nhất 2500 năm lịch sử; và có lẽ, cũng đã có chừng ấy lần các thế hệ Phật giáo đồ xao lòng nhớ lại câu chuyện Phật dự hứa ngày viên tịch, báo trước giây phút bỏ lại trần gian.
(Xem: 10955)
Nói đến mùa thu, người ta nghĩ ngay đến lá vàng. Trên cây là những tán lá vàng rợp. Dưới đất là những thảm lá vàng, trải lấp cả lối đi.
(Xem: 12483)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã có những lời dạy thật chí thiết về con người và sự vật, cảnh giớicõi nầy hay những cõi khác.
(Xem: 10946)
Shunryu Susuki Đại sư (1904-1971) là người sáng lập Trung tâm Thiền San Francisco và là một khuôn mặt chủ chốt trong việc truyền bá đạo Phật sang phương Tây.
(Xem: 13119)
Cuối tuần qua, tại Trại Huấn luyện Huyền Trang V ở Hayward, CA. Vừa lắng nghe và thông dịch lại cho các Trại sinh không hiểu tiếng Việt qua đề tài Thấu đáo về Hiện tình Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất.
(Xem: 11604)
Phật ngồi đó, tiếp tục thiền định với ánh mắt từ bi hướng về những người đang thảnh thơi thưởng thức một tách cà phê ấm hoặc bận chăm chú xem màn ảnh của điện thoại...
(Xem: 9926)
Trong khuôn viên khu nhà tập thể của quân đội, xe Bus của từng đơn vị lần lượt chuyển bánh rời khỏi vùng Fribourg vào sáng ngày cuối khóa tu học
(Xem: 12984)
Tường thuật lễ Kỷ niệm 30 năm thành lập chùa Bảo Quang và Đại Lễ Vu Lan Báo Hiếu PL 2558
(Xem: 11467)
Suốt bãi biển dài rộng, không ai mong đợi một cái gì trường cửu. Tất cả đều tạm bợ, có đó, rồi để cho sóng vô tình cuốn đi...
(Xem: 13197)
Nó từng đã chứng kiến không biết bao nhiêu cuộc chuyện trò đối đáp đùa giỡn của chúng tôi quanh chiếc bàn này - vui có, buồn có, thương yêu, giận lẫy cũng có.
(Xem: 12729)
Thế giới của chúng ta sẽ hạnh phúc biết bao nếu mỗi người không chỉ chăm lo về lợi ích riêng của mình mà còn chăm lo về lợi ích của người khác nữa.
(Xem: 13526)
"Cơn Dông Giữa Mùa Hạ" là tựa đề bài tường thuật của Trần Thị Nhật Hưng nói lên nỗi niềm bâng khuâng và xúc động cùng những kỷ niệm tràn ngập dội về tâm trí của tác giả khi hay tin Sư Ông Khánh Anh viên tịch.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant