Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Giới Luật - Tiếng Nói Từ Nguồn Tâm

04 Tháng Bảy 201414:03(Xem: 11269)
Giới Luật - Tiếng Nói Từ Nguồn Tâm


GIỚI LUẬT

TIẾNG NÓI TỪ NGUỒN TÂM

Tuệ Hải - Thích Quảng Văn

Luật tạng là một trong ba tạng giáo điển của Phật giáo, và giới luật đóng một vai trò hết sức quan trọng trong sự duy trì cũng như sự phát triển giáo đoàn Phật giáo trong suốt hơn hai nghìn năm trăm năm qua.

Điều này đã được khẳng định bằng chính lời của Đức Thế Tôn khi Ngài trả lời tôn giả A Nan về câu hỏi rằng : “Sau khi như lai diệt độ chúng con biết nương tựa vào đâu và thờ ai làm thầy ?Lúc ấy Đức Thế Tôn đã ôn tồn mà nói cùng đại chúng: “Này A Nan! sau khi ta diệt độ các ông hãy nương tựa vào chính mình và hãy lấy giới luật làm thầy.” Lời phó chúc ấy hẳn là một minh chứng hùng hồn khẳng định tính trọng yếu của giới luật đối với sự tồn vong của đạo pháp.

Bất cứ một đoàn thể hay một tổ chức nào muốn tồn tại và phát triển thì cũng cần phải có nội quy và điều luật riêng của nó. Phật giáo cũng không ngoài quy luật ấy.

Như chúng ta biết, sau khi thành lập giáo đoàn, trong suốt mười hai năm đầu đức Phật chưa chế định giới luật. Các tỳ kheo lúc ấy chỉ tu tập bằng cách truyền dạy trực tiếp từ kim khẩu của Đức Thế Tôn và chủ yếu là tu tập định cộng giới và đạo cộng giới. Bởi vì, trong những năm đầu tiên này, giáo đoàn phần lớn là những bậc căn cơ cao, một lòng tu tập tiến đến giải thoát và đa phần đều đã chứng quả.

Nhưng đến năm thứ mười ba, thì pháp hữu lậu bắt đầu phát sinh trong giáo đoàn. Sự thanh tịnh của tăng không còn được bảo đảm một cách toàn vẹn. Vì vậy, giới luật được chế định trong lúc này là một điều tối cần thiết để bảo hộ cho sự thanh tịnh của tăng đồng thời để bảo đảm cho một hành giả trên lộ trình tu tập đoạn trừ dục lạc tiến đến con đường thoát ly sinh tử.

Giới luật Phật giáo được chế định với ba mục đích chính: thứ nhất là ngăn chặn những điều gì làm ngăn trở con đường thánh đạo. Trong giáo đoàn, nếu có bất cứ một điều gì xảy ra mà nó gây tác hại cho hành giả trên phương diện tu chứng, hay thiền định thì đức Phật đều chế giới.

Việc chế giới này được đức Thế Tôn thực hiện theo tinh thầntuỳ phạm tuỳ chế”. Nghĩa là có một pháp hữu lậu phát sinh gây bất lợi cho chính bản thân hành giả và cho tăng thân thì Phật mới chế giới. Đức Phật không bao giờ chế định những điều gì mà nó chưa hề xảy ra trong cộng đồng các tỷ khiêu. Đức Phật hoàn toàn không đem giới luật để áp đặt cho đệ tử của Ngài.

Điều thứ hai khiến Đức Thế Tôn chế giới chính là những gì làm ảnh hưởng gây sự xáo trộn trong sinh hoạt của Tăng đoàn. Bởi vì, bản thể của tăng là thanh tịnh hoà hợp. Sự thanh tịnh hoà hợp này chính là sức sống là huyết mạch để quyết định sự tồn vong của tăng đoàn. Có duy trì đựơc một tăng đoàn hoà hợp, thanh tịnh thì đó mới xứng đáng là hàng tăng bảo làm chỗ quy ngưỡng vững chắc, tôn kính cho hàng tại gia cư sĩ.

Một giáo đoàn nếu chỉ gồm những tỷ khiêu ham mê dục lạc, đua đòi theo kẻ thế tục, làm những điều không nên làm, không màng đến sự chê bai của thế gian, thì chắc hẳn giáo đoàn đó sẽ không thể tồn tại lâu dài. Điều ấy không những làm mất sự tín tâm của người đời đối với Phật pháp mà còn nhanh chóng đưa Phật giáo đến chỗ hoại diệt. Chính vì vậy, mục đích thứ ba mà Đức Thế Tôn chế định giới luật là tránh sự cơ hiềm của người thế tục. Tránh sự cơ hiềm ấy chính là để bảo đảm cho sự thanh tịnhhoà hợp của tăng đoàn.

Giới luậtĐức Phật chế định ra cho hàng đê tử thọ trìhoàn toàn dựa trên tinh thần tự nguyện, không hề ép buộctuyệt đối không áp đặt cho một cá nhân nào. Ai thọ trì thì người ấy được lợi ích. Bởi vì công năng của giới luật chính là “phòng phi chỉ ác” , giúp cho hành giả tránh được mọi hố hầm của tội lỗi thẳng tiến đến bờ giải thoát giác ngộ. Trong đó nếu vị nào thọ trì thì đều có được những lợi ích sau đây:

1. Nhiếp thủ ư tăng: Vì kiện toàn tăng già thành chúng thanh tịnh.
2. Linh tăng hoan hỷ : Vì tu hành phạm hạnh nên thiện tâm tăng trưởng khiến được hoan hỷ với nhau.
3. Linh tăng an lạc : Khiến cho tăng được an lạc.
4. Linh vị tín giả tín : Khiến cho người chưa tin được tin.
5. Dĩ tín giả linh tăng trưởng : Đối những người đã tin khiến cho lòng tin họ thêm tăng trưởng.
6. Nan điều giả linh điều : Người khó điều phục khiến họ được điều phục.
7. Tàm quý giả đức an lạc: Khiến ngưòi biết hổ thẹn được an vui.
8. Đoạn hiện tại hữu lậu : Đoạn hết phiền nãohiện tại.
9. Đoan vị lai hữu lậu : Đoạn trừ phiền não trong tương lai.
10. Linh chánh pháp cửu trụ : Làm cho chánh pháp tồn tại lâu dài.

Có được những lợi ích này thông qua việc tu tập giới, chính là do giới luật được thiết lập trên hai nền tảng căn bản. Đó là từ bitrí tuệ. Từ bitrí tuệ chẳng những là nền tảng căn bản của giới luật mà còn là nền tảng căn bản cho toàn bộ tam tạng giáo điển của phật giáo.

Chúng ta biết rằng toàn bộ giới luật Phật giáo được chế định trên thất chi của thập ác nghiệp. Do vì ác pháp phát sinh nên giới luật được chế định để phòng hộ cho chính bản thân hành giả cũng như mang lại sự an bình cho tha nhân. Chẳng hạn như chúng ta giữ giới không sát sinh thì bản thân người trì giới đoạn trừ được sân tâm, tăng trưởng lòng từ bi, tránh được những tội lỗinghiệp quả do nghiệp sát gây ra. Tha nhân cũng như các loài khác đều được an ổn, sống trong sự bình yên không sợ hãi. Bằng trí tuệ cao siêu Đức Phật thấy rõ được giới nào có thể đem lại cho người tu tập sự an lạc, lợi ích và có thể dẫn đến con đường giải thoát tối hậu, đồng thời không trói buộc hay ngăn trở thánh đạo. Không như giới điều của ngoại đạo mê chấp sai lầm, không mang lại lợi ích cho con đường tu tập giác ngộ giải thoát.

Mục đích của giới luật là đem lại lợi ích, an lạc cho mình và người, nên giúp cho người tu tập đạt được an lạc trong từng bước đi. Giới luật được hiểu đúng nghĩa không phải là những giới điều trói buộc, gây phiền phức cho người thọ trì giới, mà giới luật Phật giáo rất linh động uyển chuyển tuỳ theo mỗi hoàn cảnh quốc độ, tuỳ theo từng không gianthời gian mà thay đổi ít nhiều để phù hợpthích nghi. Bằng chứng là trong 250 giới của tỷ khiêu có chia làm năm thiên thất tụ, tiêu biểu cho những mức độ khinh trọng khác nhau. Trong những điều giới đó lại có sự khai mở cho những trường hợp đặc biệt khi phạm phải thì không mắc tội.

Đơn cử như giới “không được đứng tiểu tiện” . Vì hàng cư sĩngoại đạo chê trách rằng đệ tử của sa môn Cồ Đàm đều là những người thô tháo, thiếu lịch nhã, nên Phật cấm không cho đệ tử đứng tiểu tiện. Nhưng khi các tỳ kheo đến một quốc độ khác giáo hoá thì họ cho rằng sa môn Thích tử giống như đàn bà ngồi mà tiểu tiện không có tướng trượng phu. Lúc đó đức Phật lại cho phép các tỷ khiêu đứng tiểu tiện. Những điều như thế được ghi chép rất nhiều trong luật tạng.

Như vậy, ta thấy rằng giới luật Phật giáo đâu phải chỉ là những giới điều cứng nhắc, cố chấp mà rất uyển chuyển, như chính lời của Đức Thế Tôn đã xác minh trong Ngũ Phần Luật: “ Phật dạy : tuy là điều giớ ta chế nhưng phương khác chẳng cho là thanh tịnh đều chẳng nên dùng. Tuy chẳng phải điều ta chế, nhưng phương khác cần phải làm thì chẳng được chẳng làm”. Vậy thì, giới luật trong giáo lý Phật giáo không phải là những điều cố chấp, cứng nhắc mà hoàn toàn dựa trên tinh thần tự nguyện, thiết thực đem lại lợi ích cho mình và tha nhân.

Giới luật từ khởi thuỷ được chế định chung cho tất cả những ai muốn tu tập theo hạnh giải thoát. Bất cứ một đối tượng nào nếu đủ điều kiện thoát ly sự ràng buộc của gia đình gia nhập tăng đoàn đều phải tuân theo. Bởi giới luật là một điều kiện trọng yếu để bảo trì giới thể cho một tỳ kheo như pháp. Nếu không thọ trì giới luật một cách nghiêm mật thì bản thể thanh tịnh của một tỳ kheo khó có thể được bảo toàn.

Chính vì vậy, trách nhiệm học giớitu tập giới là bổn phận của mỗi một tỷ khiêu. Do đó, giới luật không phải là một bộ môn học hay một tông phái riêng biệt mà ai thích thì theo. Vì rằng điều kiện để trở thành một tỷ khiêu như phápbạch tứ yết mathọ trì giới pháp. Vô tác giới thể của một tỷ khiêu được thành tựu là do bạch tứ yết ma, nhưng để giữ gìn được bản thể thanh tịnh đó lại là công năng của giới. Chúng ta không thể trở thành một tỷ khiêu như pháp nếu không nghiêm trì giới luật.

Trên con đường tiến đến đạo quả bồ đề, giới luật đóng một vai trò hết sức quan trọng nếu không muốn nói là yêu tố quyết định. Đó chính là nền tảng là giềng mối cho sự tu tập tiến đến giác ngộ giải thoát. Tính trọng yếu của giới luật một lần nữa lại được xác quyết và khẳng định bằng bài kệ:

Dục tu vô thượng bồ đề
Tiên tắc nghiêm trì giới luật
Giới luật nhược bất nghiêm trì
Bồ đề chung bất thành tựu”

Mỗi một tăng sĩ chúng ta hãy tinh tiến nỗ lực tu tập, hành trì giới luật để tự thăng hoa đời sống của chính mình và cũng là để kiện toàn một tăng đoàn thanh tịnh hoà hợp ngõ hầu duy trì mạng mạch Phật pháp.

Tuệ Hải - Thích Quảng Văn

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 595)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 780)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1101)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1268)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 997)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1341)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 791)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 763)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 808)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 823)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 802)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 790)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 948)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 835)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 988)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 1007)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 929)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 932)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 858)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 1015)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 956)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 897)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 995)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 910)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 850)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 958)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 885)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1144)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 915)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 1017)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1156)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1617)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1165)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1261)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1113)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 978)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 920)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 960)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 806)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1486)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1366)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1330)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1274)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1379)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1334)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1478)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1355)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1208)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1267)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1326)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant