Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Pháp Sống Mang Lại Hạnh Phúc

09 Tháng Sáu 201407:40(Xem: 10485)
Pháp Sống Mang Lại Hạnh Phúc

PHÁP SỐNG MANG LẠI HẠNH PHÚC

Hoàng Nguyên


Để mở đầu bài viết này tôi mượn lời của John Stuart Mill: “Tôi đã học cách tìm hạnh phúc bằng cách giới hạn các ham muốn của mình hơn là nỗ lực để thỏa mãn chúng”.

Thỏa mãn ham muốn cũng là một dạng hạnh phúc, nhưng chóng tàn và khó đạt đến, vì không phải lúc nào ta cũng đạt được những ham muốn. Hơn nữa ham muốn này đạt được, sẽ nảy sinh ham muốn khác, đó là quy luật của tâm lý, mải chạy theo ham muốn không có điểm dừng. Tìm hạnh phúc bằng cách giới hạn các ham muốn chính là pháp thiểu dục tri túc của nhà Phật.

Thiểu dục tri túc, theo nguyên nghĩa, là ít ham muốn - biết đủ. Pháp này thuộc lĩnh vực đạo đức, lối sống, là quá trình thực nghiệm sâu xa của Đức Phật.

Trải qua sáu năm tu khổ hạnh bất thành, Ngài đã từ bỏ, chuyển sang lối sống mới, không quá khắc khổ với bản thân, cuối cùng chứng được Tam minh, giác ngộ thành Phật. Sự giác ngộ này về mặt nhận thức, là xác chứng nguyên lý duyên khởi hình thành nên vũ trụ vạn tượng; về mặt giới đức, là từ bỏ hai hình thái sống đam mê thác loạn trong dục vọng và khắc khổ hủy hoại bản thân. Do đó, thiểu dục tri túc trước hết không phải là một chủ trương mang tính khổ hạnh ép xác như có người lầm tưởng, mà chỉ là sắc thái sống, hoàn toàn không phải giáo điều cứng nhắc trói buộc con người, vì nói biết đủ chứ không nói bao nhiêu là đủ, cũng như nói ít ham muốn chứ không nói chừng nào mới ít ham muốn. Cho nên thiểu dục tri túc là nhắm đến suy nghĩ bên trong chứ không dựa vào hình thức vật chất bên ngoài.

Ít ham muốn, biết đủ là tùy hoàn cảnh và khả năng của mỗi người. Chúng ta có khả năng chừng nào thì hãy bằng lòng với khả năng đó. Ví dụ ta chỉ có khả năng mua được chiếc xe gắn máy, ta vui vẻ sử dụng nó. Nếu ta ham muốn vượt quá khả năng của mình, sẽ tạo nên bất mãn. Vì vậy mỗi người phải biết lượng tài sức của mình để quyết định ước muốn nhiều hay ít. Nếu sức lực của mình không đủ mà suốt ngày cứ loay hoay đeo đuổi những mơ tưởng điên rồ thì chắc chắn sẽ chuốc lấy những khổ não.

Tham muốn tạo điều kiện căn bản cho sự bất mãn, vì dù đã có nhiều bao nhiêu đi nữa, ta vẫn luôn tìm cầu cho được nhiều hơn, tốt hơn. Xã hội hiện đại chuyên khai thác lòng tham muốn và sự không thỏa mãn này, và ta luôn nghe rằng các mốt thời trang năm trước đã lỗi thời, các vật dụng năm trước đã lạc hậu. Nhưng chẳng mấy ai có khả năng mua được những thứ mà họ nghĩ mình phải có. Ngay cả khi ta đã mua về rất nhiều thứ, nhưng rồi chúng sẽ trở nên cũ kỹ hay hư hỏng. Hoặc đôi khi thấy người khác có cái này cái nọ, ta cũng đua đòi cho “bằng chị bằng em”. Điều này có thể khiến cho ta phải luôn bất ổn.

Trái lại, nếu ta tự nhủ, “những gì ta hiện có đã là tốt lắm rồi”, thì trong lòng ta sẽ được thanh thản. Điều này không có nghĩa là ta sẽ không bao giờ mua thêm những vật dụng mới hay là xã hội không cần cải thiện về mặt công nghệ kỹ thuật nữa. Nếu ta có nhu cầu về một cái gì đó hoặc kiểu vật dụng mới mang lại hiệu quả cao hơn, thì việc mua sắm chẳng có gì là sai trái cả, miễn là ta có đủ tiền để mua. Nhưng dù ta có mua sắm được hay không thì trong lòng ta vẫn thanh thản, vì ta sẽ luôn hài lòng với những gì mình đang có.

Nếu có khả năng ta cứ tiêu xài theo nhu cầu của mình, miễn đừng phung phí. Tiết kiệm cũng là cách sống thiểu dục tri túc. Chúng ta mua sắm những gì thực sự thiết yếu, không mua sắm vì đua đòi, vì để hơn người hay vì để khoe khoang. Khi tiêu xài cái gì, hãy nghĩ đến những người đang còn khó khăn và thiếu thốn, để tiết chế hành động phung phí của mình.

Có lần Đức Phật nhận lời mời về thọ trai tại tư gia của một vương tử giàu có, ông tên Bồ-đề (Bodhi). Bồ-đề sung sướng, dọn dẹp nhà cửa sạch sẽ và trang hoàng thật lộng lẫy. Ông trải một tấm vải trắng từ trong nhà ra ngoài ngõ để cung đón Đức Phật. Khi Ngài đến, đích thân vương tử Bồ-đề ra nghinh đón, nhưng đến trước tấm vải, Đức Phật dừng lại, ba lần Bồ-đề thỉnh Ngài bước vào, Ngài đều im lặng đứng yên, mắt nhìn Tôn giả A-nan. Hiểu ý Phật, Tôn giả A-nan đến nói với vương tử Bồ-đề xin cuốn tấm vải cất đi. Đức Phật không bước lên vì Ngài nghĩ về những người nghèo khó, thiếu ăn thiếu mặc. Hành động cao cả này của Đức Phật dạy cho ta bài học về tránh lãng phí.

Biết hài lòng với những gì mình đang có là một phẩm chất không thể thiếu trong cung cách sống yêu thương, san sẻ mình vì mọi người. Khi tham muốn thôi thúc, ta không có tinh thần vị tha đích thực, đơn giản vì ta không thể chia sẻ điều mình ước muốn cho người khác. Ví dụ tham muốn có chiếc ô-tô, cố sức gom góp cho đủ tiền, thì khi gặp mối lợi lộc, ta khó chia sẻ cho người khác, vì ước muốn có chiếc xe thôi thúc ta phải tích cóp cho đủ số tiền càng nhanh càng tốt. Vậy nên ở đâu có tham muốn, ở đó có ích kỷ. Ở đâu không có tham muốn ở đó có vị tha. Với tâm tham muốn ích kỷ, bạn đang trải nghiệm khổ đau và gây ra khổ đau. Với tâm hài lòng biết đủ, bạn đang trải nghiệm hạnh phúc và trao tặng hạnh phúc.

Xã hội luôn ngợi ca, vinh danh những người có ý chí phấn đấu và khát vọng làm giàu. Điều này hoàn toàn không trái ngược với tinh thần thiểu dục tri túc, vì đây là những khát vọng, ước muốn tích cực, làm giàu bằng sự vượt khó, cần cù, thông minhsáng tạo. Trong kinh Tăng Chi, Đức Phật khuyến khích chúng ta làm giàu với bốn lý do cao thượng: Tạo sung túc cho bản thângia đình, giúp đỡ người thân và bạn bè, hỗ trợ những người khó khăn bất hạnh, cúng dường các vị tu hành.

Như vậy, nỗ lực làm giàu không những mang lại lợi ích cho bản thân mà còn góp phần tạo phúc lợi cho xã hội. Thực tế những doanh nhân là những người đóng vai trò chính trong việc tạo ra phúc lợi xã hội, họ còn tạo ra công ăn việc làm cho nhiều người, góp phần thúc đẩy xã hội phát triển giàu mạnh.

Trong cuốn Câu chuyện nhỏ, đạo lý lớn, có câu chuyện thế này:

Một người chủ giàu có nhìn thấy một thợ câu cá đang nằm lười biếng cạnh thuyền câu, mồm ngậm tẩu thuốc. Người chủ hỏi:

- Tại sao anh không làm việc?

- Vì tôi đã câu đủ cho hôm nay rồi.

- Thế tại sao anh không câu thêm vài con nữa?

- Câu thêm thì tôi sẽ làm gì với chúng?

- Anh có thế kiếm thêm tiền, với số tiền đó, anh có thể mua một cái động cơ mới cho chiếc thuyền của mình, rồi đi đánh cá ở vùng biển xa hơn. Anh sẽ đánh bắt được nhiều cá hơn và kiếm nhiều tiền hơn nữa. Sau đó, anh có thể mua thêm một chiếc thuyền nữa, thuê một đội đánh bắt đi theo mình. Và anh sẽ trở nên giàu có, giống tôi.

- Và, khi đó tôi sẽ làm gì?

- Anh có thể thảnh thơi tận hưởng cuộc sống, làm những gì mà anh yêu thích.

- Vậy, ông nghĩ tôi đang làm gì đây? - Người thợ câu ngước nhìn và hỏi.

Câu chuyện thường được trích dẫn để nói lên tinh thần thiểu dục tri túc, nhưng tôi nghĩ chưa phải là tinh thần tri túc toàn hảo, đó chỉ là phiến diện và có tính cực đoan, vì thiểu dục tri túc không cổ vũ cho sự ích kỷ, chỉ nghĩ đến hưởng thụ bản thân. Thiểu dục tri túc cũng không đồng nghĩa với lười biếng, thiếu nỗ lực phấn đấu. Nếu ta cảm thấy đủ cho bản thân thì vẫn phấn đấu vì những mục đích cao thượng khác là giúp đỡ người thân và bè bạn, hỗ trợ những người khó khăn bất hạnh, cúng dường các vị tu hành như bài kinh ta vừa đề cập ở trên.

Nỗ lực làm giàu bằng đôi tay và khối óc với những mục đích cao thượng như thế đáng để vinh danh và ca ngợi. Điều đáng nói là có những người dư thừa mọi thứ nhưng lại luôn cau có lo âu, lắm khi lại than thở, cầu cạnh người khác để cầu xin thêm. Đêm ngày không ngủ được, lo nghĩ đến trăm mưu ngàn kế để đạt cho được điều đã ước mong, có rồi còn ưng có thêm, mong cầu này dù có đạt được lại kéo thêm mong muốn mới, một sinh hai rồi sinh ba, sinh bề bộn tạo nên tâm trạng rối bời. Người tham lam như vậy làm sao an tịnh được tâm hồn để vui hưởng cuộc sống, hướng đến tha nhân?

Có đôi vợ chồng ở dưới núi Phổ Đà làm nghề đốn củi, cuộc sống rất nghèo khó. Một hôm người chồng đào được ở dưới gốc cây một tượng La-hán bằng vàng! Gia đình ông trở nên sung túc giàu có.

Thế nhưng ông vẫn chưa thỏa mãn, suốt ngày cau có buồn bã, người vợ thấy vậy bèn hỏi: Bây giờ cái ăn, cái mặc chúng ta đã không thiếu lại có vườn tược tốt và nhà cao cửa rộng, sao trông ông lại còn buồn bã như vậy?

Người chồng bực tức quát: Bà là đàn bà biết gì chứ! Mười tám tượng La-hán mà tôi chỉ lấy được có một tượng mà thôi. Vậy mười bảy tượng La-hán còn lại được cất giấu ở đâu? Làm sao tôi có thể an tâm được chứ?

Người chồng tham lam cuối cùng sinh bệnh và chết với nỗi buồn đó. (Câu chuyện nhỏ, đạo lý lớn của Nguyệt Hòa)

Nếu không biết hài lòng với những gì mình đang có, chúng ta không có khả năng sống hạnh phúc trong hiện tại. Frederick Koening nói: “Chúng ta thường hay quên rằng hạnh phúc không phải do ta đạt được cái chúng ta không có, mà đúng hơn là do ta nhận biếttrân trọng những gì chúng ta đang có”. Hãy quay về với hiện tại và biết bằng lòng với những gì mình đang có là pháp sống mang lại hạnh phúc đích thực!

Hoàng Nguyên
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2068)
Sống ở đời ai cũng mong cầu được hạnh phúc. Hạnh phúc là gì?
(Xem: 2219)
Ở đời bất cứ sự kiện nào xảy ra cũng có nguyên do của nó. Như bài kinh “Bát Đại Nhân Giác” xuất hiện trên thế gian này cũng không ngoại lệ.
(Xem: 1712)
Hai chữ vô thường rất quen thuộc với mọi người chúng ta, trong đời sống hàng ngày ai ai cũng nghe và nói.
(Xem: 2035)
Tư tưởng nhân quả Phật giáotư tưởng nổi bật trong nhân sinh quan Phật giáo.
(Xem: 1743)
Chúng ta đang chứng kiến những bất ổn xã hội hay thiên tai trên toàn thế giới, Việt Nam không phải là ngoại lệ khi gần đây
(Xem: 1732)
Sống phải có niềm tin, nhưng đừng tin quá vào một người, dù người đó là ai, có địa vị như thế nào trong xã hội.
(Xem: 1899)
Đức Phật đã dạy cho hàng đệ tử về mối tương quan và lợi ích của việc thực hành bốn nhiếp pháp trong Kinh Tăng Chi Bộ,
(Xem: 1911)
Đức Phật Thích Ca Như Lai của chúng ta, lúc mới phát tâm, đã vì ta mà tu Bồ tát đạo, trải qua vô lượng kiếp chịu đủ các thứ khổ cực.
(Xem: 1563)
“Không làm các việc ác Siêng làm các việc lành Thanh tịnh hoá tâm ý…”
(Xem: 1733)
Việc khấn nguyện, cầu nguyện là một vấn đề tâm linh rất phổ biến của tín đồ mọi tôn giáo và không cứ gì mùa xuân mà việc khấn nguyện...
(Xem: 2075)
Hồi sáng, lúc đi thiền hành ở Xóm Thượng, tôi đi xuôi xuống chùa Sơn Hạ. Mỗi bước chân giúp tôi tiếp xúc với sự sống rất sâu sắc
(Xem: 1824)
Chế độ ăn kiêng của bạn có thể giúp dự đoán bạn sống được bao lâu.
(Xem: 2389)
Đức Phật dạy “Thân người khó được, Phật pháp khó nghe”. Biết điều này, khi được là con Phật, ta sẽ thấy mình thật hạnh phúc vì ...
(Xem: 1718)
Không ít Phật tử đến chùa quy y, học Phật pháp, công quả, tham gia các hoạt động Phật sự, thường theo cảm tình đối với người Thầy ở nơi mình đến hơn là...
(Xem: 1721)
Giữ năm giới là khó, giữ gìn một cách hoàn hảo càng khó hơn. Muốn giữ giới hoàn hảo, trước phải học và thông hiểu về mỗi giới
(Xem: 1681)
Đóng cửa các nẻo đường xấu ác để chúng sanh không bị sa rớt xuống các nẻo địa ngục, quỷ đói, súc sanh.
(Xem: 2126)
“Chớ bảo xuân tàn, hoa rụng hết. Đêm qua sân trước một cành mai”
(Xem: 1951)
Người ta nói uống trà là thú vui tao nhã, thanh cao. Thú vui cuộc đời nói chung có hai loại là thanh cao và không thanh cao.
(Xem: 2089)
Mỗi khi mùa xuân mới về là trời đất lại thanh tân, vạn vật muôn loài thay áo mới nhưng lòng người thì vẫn cũ, vẫn chẳng đổi thay,
(Xem: 1631)
Nếu mùa xuân là cái gì tươi đẹp nhất thì đó phải là vẻ đẹp từ sự biết ơn trong tâm hồn của mỗi người.
(Xem: 2251)
Mùa xuân hải ngoại trời lạnh lắm nhưng lòng người ấm áp vì nhớ về những mùa xuân dân tộc.
(Xem: 1596)
Không biết từ khi nào, có lẽ từ lâu lắm rồi, trà là một trong những thứ không thể thiếu trong các gia đình của người phương Đông nói chung và người Việt Nam nói riêng.
(Xem: 1875)
Mùa xuân là mùa khởi đầu năm mới. Năm mới thường mở đầu bằng một mùa xuân mơ ước đầy khát vọng, hoài bão.
(Xem: 1766)
Bóng chiều ngã dài, trên sườn đồi, vài sợi mây xanh vươn vấn, tiếc nuối dư hương nhạt nhòa, chạnh lòng băng giá khách tha phương tìm về cố quốc
(Xem: 1827)
Đạo đức học Phật giáo là một hệ giá trị bền vững cùng năm tháng, xuất phát từ tuệ nhãn của bậc Thiện Thệ hơn hai nghìn sáu trăm năm trước.
(Xem: 1672)
Trong Trung luận hay Trung đạo luận hay Trung quán luận (Mulamadhyamakakarika, Căn bản Trung luận tụng), bản văn căn bản của ngài Long Thọ,
(Xem: 2412)
Ngày Tết cũng là dịp để những người con Phật suy nghiệm về lẽ vô thường biến dịch của vạn pháp và của chính thân phận mình.
(Xem: 2122)
Sự tha thứ chữa lành vết thương cho người mà bạn cho là đã xúc phạm và chính bạn, người bị xúc phạm.
(Xem: 2069)
Cuối thế kỉ XIX cờ Phật giáo được thiết kế nhằm tượng trưngđại diện một cách thống nhất cho Phật giáo và được Phật tử trên khắp thế giới sử dụng.
(Xem: 1876)
Ngôn ngữ là hình thái biểu đạt ý tưởng.Tùy mỗi chủng loại có một âm ngữ riêng; âm ngữ của con người thể hiện qua ngôn ngữ ...
(Xem: 2227)
Chúng ta thường đấu tranh với việc chọn món quà nào là hoàn hảo. Chúng ta tập trung sự chú ý của mình chủ yếu vào các đối tượng và sự kiện.
(Xem: 1799)
Thực hành Tịnh độđơn giản. Cách tu tập này không yêu cầu hành giả phải được học về tư tưởng Phật giáo hoặc đặc biệt về giới, về thiền hoặc kỷ luật tâm linh.
(Xem: 1921)
Một trong những kết luậnPhật giáo và các nhà khoa học đều đồng ý là không có đấng tạo hóa.
(Xem: 2157)
Thiền pháp tỉnh thức (mindfulness meditation) đang trở thành một trong các khuynh hướng ưu thắng của nhiều lĩnh vực hoạt động tại Hoa Kỳ và nhiều nước khác.
(Xem: 1684)
Đức Phật giảng dạy tám mươi bốn ngàn pháp môn, mỗi pháp môn phù hợp cho trình độcăn cơ của chúng sinh tiếp nhận,
(Xem: 1947)
Niềm tin là nguồn nguyên liệu cần thiết cho sự sống. Không có niềm tin, con người ta sẽ chết, hoặc sống gần như chết
(Xem: 1944)
Tu, rốt cuộc là để nhìn vạn pháp đúng như chính nó.
(Xem: 2154)
Niệm Phật là một pháp môn dễ học, dễ tu, được đức Phật dạy rất sớm, rất nhiều trong các kinh, từ kinh Nikaya hệ thống ngôn ngữ Pali của Phật giáo Nguyên thủy.
(Xem: 1928)
Bài kinh “Bốn Hạng Người Hiện Hữu Ở Đời” được ghi lại trong Tăng Chi Bộ Kinh I, chương 4, phẩm Bhandagàma, phần Thuận Dòng.
(Xem: 1768)
Bài viết này được biên soạn bởi có nhiều Tỳ khưu hỏi tôi về những giới luật sử dụng tiền bạc được tìm thấy trong vinaya (Tạng Luật).
(Xem: 1752)
Đạo Phật có phải là một tôn giáo không là một câu hỏi không mới nhưng không cũ đối với những ai đến với đạo Phật chỉ bằng con đường tín ngưỡng đơn thuần.
(Xem: 1759)
Đi chùa lễ Phật, cầu gia hộ. Trước buổi học Phật pháp, hay lễ hội Phật sự, nghi thức đầu tiên đều là “niệm Phật cầu gia hộ”.
(Xem: 1873)
Đúng là nếu giữ được năm giới thì cơ bản sẽ không rơi vào ba đường ác và được tái sinh ít nhất là vào cõi người,
(Xem: 2161)
Trong kinh Thừa tự pháp, đức Phật dạy hàng đệ tử nên thừa tự giáo pháp của Ngài chứ không nên thừa tự tài vật của Ngài.
(Xem: 1714)
Trong các kinh Bát nhã ba la mật giảng nói nhiều về tánh Không với những phẩm tính như vô tự tánh, vô sở hữu, bất khả đắc, vô sanh, như huyễn…
(Xem: 1684)
Phật phápgiáo lý của Đức Phật. Gọi là giáo lý tức là nhằm chỉ đến giáo dục với tất cả các phạm trù
(Xem: 2250)
Con người vĩ đại đó, tấm lòng trí tuệ đó, phương pháp giáo dục siêu việt đó của đức Phật đã khiến muôn nghìn trái tim của nhân loại hướng về Ngài
(Xem: 1956)
Định hướng tư tưởng là một vấn đề vô cùng quan trọng trong đời sống sinh hoạt của con người.
(Xem: 1783)
Ngược dòng lịch sử hơn 2.500 năm về trước ở xứ Ấn Độ, trước khi Đức Phật ra đời, nơi đây đã đơm hoa kết trái nhiều hệ tư tưởng khác nhau.
(Xem: 2354)
Con người sinh ra đời, sống và lớn lên trong gia đình được ấp ủ bởi tình thương của cha mẹ, tình anh chị em, tình bà con dòng họ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant