Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Bài Mới Nhất trang Văn Học
Điền Email để nhận bài mới

Pháp Sống Mang Lại Hạnh Phúc

09 Tháng Sáu 201407:40(Xem: 13213)
Pháp Sống Mang Lại Hạnh Phúc

PHÁP SỐNG MANG LẠI HẠNH PHÚC

Hoàng Nguyên


Để mở đầu bài viết này tôi mượn lời của John Stuart Mill: “Tôi đã học cách tìm hạnh phúc bằng cách giới hạn các ham muốn của mình hơn là nỗ lực để thỏa mãn chúng”.

Thỏa mãn ham muốn cũng là một dạng hạnh phúc, nhưng chóng tàn và khó đạt đến, vì không phải lúc nào ta cũng đạt được những ham muốn. Hơn nữa ham muốn này đạt được, sẽ nảy sinh ham muốn khác, đó là quy luật của tâm lý, mải chạy theo ham muốn không có điểm dừng. Tìm hạnh phúc bằng cách giới hạn các ham muốn chính là pháp thiểu dục tri túc của nhà Phật.

Thiểu dục tri túc, theo nguyên nghĩa, là ít ham muốn - biết đủ. Pháp này thuộc lĩnh vực đạo đức, lối sống, là quá trình thực nghiệm sâu xa của Đức Phật.

Trải qua sáu năm tu khổ hạnh bất thành, Ngài đã từ bỏ, chuyển sang lối sống mới, không quá khắc khổ với bản thân, cuối cùng chứng được Tam minh, giác ngộ thành Phật. Sự giác ngộ này về mặt nhận thức, là xác chứng nguyên lý duyên khởi hình thành nên vũ trụ vạn tượng; về mặt giới đức, là từ bỏ hai hình thái sống đam mê thác loạn trong dục vọng và khắc khổ hủy hoại bản thân. Do đó, thiểu dục tri túc trước hết không phải là một chủ trương mang tính khổ hạnh ép xác như có người lầm tưởng, mà chỉ là sắc thái sống, hoàn toàn không phải giáo điều cứng nhắc trói buộc con người, vì nói biết đủ chứ không nói bao nhiêu là đủ, cũng như nói ít ham muốn chứ không nói chừng nào mới ít ham muốn. Cho nên thiểu dục tri túc là nhắm đến suy nghĩ bên trong chứ không dựa vào hình thức vật chất bên ngoài.

Ít ham muốn, biết đủ là tùy hoàn cảnh và khả năng của mỗi người. Chúng ta có khả năng chừng nào thì hãy bằng lòng với khả năng đó. Ví dụ ta chỉ có khả năng mua được chiếc xe gắn máy, ta vui vẻ sử dụng nó. Nếu ta ham muốn vượt quá khả năng của mình, sẽ tạo nên bất mãn. Vì vậy mỗi người phải biết lượng tài sức của mình để quyết định ước muốn nhiều hay ít. Nếu sức lực của mình không đủ mà suốt ngày cứ loay hoay đeo đuổi những mơ tưởng điên rồ thì chắc chắn sẽ chuốc lấy những khổ não.

Tham muốn tạo điều kiện căn bản cho sự bất mãn, vì dù đã có nhiều bao nhiêu đi nữa, ta vẫn luôn tìm cầu cho được nhiều hơn, tốt hơn. Xã hội hiện đại chuyên khai thác lòng tham muốn và sự không thỏa mãn này, và ta luôn nghe rằng các mốt thời trang năm trước đã lỗi thời, các vật dụng năm trước đã lạc hậu. Nhưng chẳng mấy ai có khả năng mua được những thứ mà họ nghĩ mình phải có. Ngay cả khi ta đã mua về rất nhiều thứ, nhưng rồi chúng sẽ trở nên cũ kỹ hay hư hỏng. Hoặc đôi khi thấy người khác có cái này cái nọ, ta cũng đua đòi cho “bằng chị bằng em”. Điều này có thể khiến cho ta phải luôn bất ổn.

Trái lại, nếu ta tự nhủ, “những gì ta hiện có đã là tốt lắm rồi”, thì trong lòng ta sẽ được thanh thản. Điều này không có nghĩa là ta sẽ không bao giờ mua thêm những vật dụng mới hay là xã hội không cần cải thiện về mặt công nghệ kỹ thuật nữa. Nếu ta có nhu cầu về một cái gì đó hoặc kiểu vật dụng mới mang lại hiệu quả cao hơn, thì việc mua sắm chẳng có gì là sai trái cả, miễn là ta có đủ tiền để mua. Nhưng dù ta có mua sắm được hay không thì trong lòng ta vẫn thanh thản, vì ta sẽ luôn hài lòng với những gì mình đang có.

Nếu có khả năng ta cứ tiêu xài theo nhu cầu của mình, miễn đừng phung phí. Tiết kiệm cũng là cách sống thiểu dục tri túc. Chúng ta mua sắm những gì thực sự thiết yếu, không mua sắm vì đua đòi, vì để hơn người hay vì để khoe khoang. Khi tiêu xài cái gì, hãy nghĩ đến những người đang còn khó khăn và thiếu thốn, để tiết chế hành động phung phí của mình.

Có lần Đức Phật nhận lời mời về thọ trai tại tư gia của một vương tử giàu có, ông tên Bồ-đề (Bodhi). Bồ-đề sung sướng, dọn dẹp nhà cửa sạch sẽ và trang hoàng thật lộng lẫy. Ông trải một tấm vải trắng từ trong nhà ra ngoài ngõ để cung đón Đức Phật. Khi Ngài đến, đích thân vương tử Bồ-đề ra nghinh đón, nhưng đến trước tấm vải, Đức Phật dừng lại, ba lần Bồ-đề thỉnh Ngài bước vào, Ngài đều im lặng đứng yên, mắt nhìn Tôn giả A-nan. Hiểu ý Phật, Tôn giả A-nan đến nói với vương tử Bồ-đề xin cuốn tấm vải cất đi. Đức Phật không bước lên vì Ngài nghĩ về những người nghèo khó, thiếu ăn thiếu mặc. Hành động cao cả này của Đức Phật dạy cho ta bài học về tránh lãng phí.

Biết hài lòng với những gì mình đang có là một phẩm chất không thể thiếu trong cung cách sống yêu thương, san sẻ mình vì mọi người. Khi tham muốn thôi thúc, ta không có tinh thần vị tha đích thực, đơn giản vì ta không thể chia sẻ điều mình ước muốn cho người khác. Ví dụ tham muốn có chiếc ô-tô, cố sức gom góp cho đủ tiền, thì khi gặp mối lợi lộc, ta khó chia sẻ cho người khác, vì ước muốn có chiếc xe thôi thúc ta phải tích cóp cho đủ số tiền càng nhanh càng tốt. Vậy nên ở đâu có tham muốn, ở đó có ích kỷ. Ở đâu không có tham muốn ở đó có vị tha. Với tâm tham muốn ích kỷ, bạn đang trải nghiệm khổ đau và gây ra khổ đau. Với tâm hài lòng biết đủ, bạn đang trải nghiệm hạnh phúc và trao tặng hạnh phúc.

Xã hội luôn ngợi ca, vinh danh những người có ý chí phấn đấu và khát vọng làm giàu. Điều này hoàn toàn không trái ngược với tinh thần thiểu dục tri túc, vì đây là những khát vọng, ước muốn tích cực, làm giàu bằng sự vượt khó, cần cù, thông minhsáng tạo. Trong kinh Tăng Chi, Đức Phật khuyến khích chúng ta làm giàu với bốn lý do cao thượng: Tạo sung túc cho bản thângia đình, giúp đỡ người thân và bạn bè, hỗ trợ những người khó khăn bất hạnh, cúng dường các vị tu hành.

Như vậy, nỗ lực làm giàu không những mang lại lợi ích cho bản thân mà còn góp phần tạo phúc lợi cho xã hội. Thực tế những doanh nhân là những người đóng vai trò chính trong việc tạo ra phúc lợi xã hội, họ còn tạo ra công ăn việc làm cho nhiều người, góp phần thúc đẩy xã hội phát triển giàu mạnh.

Trong cuốn Câu chuyện nhỏ, đạo lý lớn, có câu chuyện thế này:

Một người chủ giàu có nhìn thấy một thợ câu cá đang nằm lười biếng cạnh thuyền câu, mồm ngậm tẩu thuốc. Người chủ hỏi:

- Tại sao anh không làm việc?

- Vì tôi đã câu đủ cho hôm nay rồi.

- Thế tại sao anh không câu thêm vài con nữa?

- Câu thêm thì tôi sẽ làm gì với chúng?

- Anh có thế kiếm thêm tiền, với số tiền đó, anh có thể mua một cái động cơ mới cho chiếc thuyền của mình, rồi đi đánh cá ở vùng biển xa hơn. Anh sẽ đánh bắt được nhiều cá hơn và kiếm nhiều tiền hơn nữa. Sau đó, anh có thể mua thêm một chiếc thuyền nữa, thuê một đội đánh bắt đi theo mình. Và anh sẽ trở nên giàu có, giống tôi.

- Và, khi đó tôi sẽ làm gì?

- Anh có thể thảnh thơi tận hưởng cuộc sống, làm những gì mà anh yêu thích.

- Vậy, ông nghĩ tôi đang làm gì đây? - Người thợ câu ngước nhìn và hỏi.

Câu chuyện thường được trích dẫn để nói lên tinh thần thiểu dục tri túc, nhưng tôi nghĩ chưa phải là tinh thần tri túc toàn hảo, đó chỉ là phiến diện và có tính cực đoan, vì thiểu dục tri túc không cổ vũ cho sự ích kỷ, chỉ nghĩ đến hưởng thụ bản thân. Thiểu dục tri túc cũng không đồng nghĩa với lười biếng, thiếu nỗ lực phấn đấu. Nếu ta cảm thấy đủ cho bản thân thì vẫn phấn đấu vì những mục đích cao thượng khác là giúp đỡ người thân và bè bạn, hỗ trợ những người khó khăn bất hạnh, cúng dường các vị tu hành như bài kinh ta vừa đề cập ở trên.

Nỗ lực làm giàu bằng đôi tay và khối óc với những mục đích cao thượng như thế đáng để vinh danh và ca ngợi. Điều đáng nói là có những người dư thừa mọi thứ nhưng lại luôn cau có lo âu, lắm khi lại than thở, cầu cạnh người khác để cầu xin thêm. Đêm ngày không ngủ được, lo nghĩ đến trăm mưu ngàn kế để đạt cho được điều đã ước mong, có rồi còn ưng có thêm, mong cầu này dù có đạt được lại kéo thêm mong muốn mới, một sinh hai rồi sinh ba, sinh bề bộn tạo nên tâm trạng rối bời. Người tham lam như vậy làm sao an tịnh được tâm hồn để vui hưởng cuộc sống, hướng đến tha nhân?

Có đôi vợ chồng ở dưới núi Phổ Đà làm nghề đốn củi, cuộc sống rất nghèo khó. Một hôm người chồng đào được ở dưới gốc cây một tượng La-hán bằng vàng! Gia đình ông trở nên sung túc giàu có.

Thế nhưng ông vẫn chưa thỏa mãn, suốt ngày cau có buồn bã, người vợ thấy vậy bèn hỏi: Bây giờ cái ăn, cái mặc chúng ta đã không thiếu lại có vườn tược tốt và nhà cao cửa rộng, sao trông ông lại còn buồn bã như vậy?

Người chồng bực tức quát: Bà là đàn bà biết gì chứ! Mười tám tượng La-hán mà tôi chỉ lấy được có một tượng mà thôi. Vậy mười bảy tượng La-hán còn lại được cất giấu ở đâu? Làm sao tôi có thể an tâm được chứ?

Người chồng tham lam cuối cùng sinh bệnh và chết với nỗi buồn đó. (Câu chuyện nhỏ, đạo lý lớn của Nguyệt Hòa)

Nếu không biết hài lòng với những gì mình đang có, chúng ta không có khả năng sống hạnh phúc trong hiện tại. Frederick Koening nói: “Chúng ta thường hay quên rằng hạnh phúc không phải do ta đạt được cái chúng ta không có, mà đúng hơn là do ta nhận biếttrân trọng những gì chúng ta đang có”. Hãy quay về với hiện tại và biết bằng lòng với những gì mình đang có là pháp sống mang lại hạnh phúc đích thực!

Hoàng Nguyên
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1963)
Người học Phật rất quen thuộc với ảnh dụ qua sông rồi thì bỏ ngay chiếc bè.
(Xem: 2305)
Triết học Phật giáo luôn chứa đựng những khái niệm sâu sắc và khó hiểu, nhưng cũng mang lại những giá trị tri thức
(Xem: 1910)
Kinh Tứ Niệm Xứ dạy hành giả thiết lập Chánh Niệm trên bốn lãnh vực Thân, Thọ, Tâm, Pháp gọi tắt là Niệm Thân, Niệm Thọ, Niệm Tâm, Niệm Pháp.
(Xem: 2126)
Các vị thánh trong Phật giáo thường được mô tảtừ bi như mẹ hiền, với sự kiên nhẫn vô tận của một người mẹ
(Xem: 1871)
Thu thúc lục căn là làm chủ sáu giác quan khi tiếp xúc với sáu đối tượng trần cảnh.
(Xem: 2327)
Bốn câu thi kệ này được trích trong bài « Kinh Hạnh Phúc » mà đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã nói cách đây đã hơn hai ngàn năm trăm năm,
(Xem: 2283)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc.
(Xem: 2023)
Chúng ta ở đây; chúng ta tồn tạichúng taquyền hiện hữu. Ngay cả những sinh vật không có tri giác như hoa cũng có quyền tồn tại.
(Xem: 2444)
Đức Phật xuất hiệnhành đạo nơi xứ Ấn cách nay hơn 26 thế kỷ với hiện thân con người, bậc Giác ngộ trong thế gian.
(Xem: 1918)
Phá kiến là một thuật ngữ trong Phật giáo dùng để chỉ cho việc có quan điểm, giải thích, hướng dẫn sai lạc ý nghĩa chân chính của Phật pháp.
(Xem: 2094)
“Dòng sông ơi! Vẫn thơ mộng như ngày xưa! Tình người ơi! Vẫn đẹp cho đến bao giờ…?”
(Xem: 2296)
Nói sơ tâm, là nói về tâm của người mới học, tâm đơn sơ, tâm như hài nhi trẻ nhỏ, tâm rất mực hồn nhiên, chưa có chút gì là chữ nghĩa dày đặc, không chút gì là kiến thức uyên bác.
(Xem: 2131)
Cái đẹp luôn là đề tài thơ mộng cho con người ta bay bổng, mộng mơ và tương tư không dứt, nó là một phần ý vị của cuộc sống.
(Xem: 2247)
Người tu học Phật đều biết rằng, Bát Chánh đạolà nền tảng quan trọng của toàn bộ giáo pháp Thế Tôn.
(Xem: 1929)
Chúng ta không thể nào trường sanh bất tử, trẻ đẹp, và mạnh khỏe mãi mãi được trên đời.
(Xem: 2254)
Tu hành là gì? Có phải nhất định cần thoát ly cuộc sống, chạy vào trong chùa niệm kinh lạy Phật...
(Xem: 2878)
Chánh kiến là thấy biết đúng sự thật. Thấy biết về thiện và bất thiện, căn bản của thiện và bất thiện;
(Xem: 2133)
Để đoạn tận tất cả tà kiến thì phải trau dồi chánh kiến. Chánh kiến ở đây là cái gì?
(Xem: 2724)
Thế gian không có cái gì khổ cả, khổ chỉ là những ảo giác của con người.
(Xem: 2294)
Đúng thế, đời là vô thường, huyễn mộng ai ai cũng biết. Nhưng chúng ta không thể nào ngồi im mà thụ động tại chỗ.
(Xem: 2399)
Đức Phật đã dạy các nhà sư nên đi lang thang thế nào? Các bản tiếng Anh thường dùng chữ “wander” để nói về hành vi lang thang.
(Xem: 1934)
Phàm có sinh thì có tử, đó là lẽ thường trong cuộc đời. Vạn sự vạn vật đều vận hành theo quy luật sinh ra, tồn tại, thay đổi, hoại diệt (gọi là sinh, trụ, dị, diệt)
(Xem: 1943)
Pháp thoại này Thế Tôn dạy Tôn giả La-vân (La-hầu-la) quán chiếu về thân nghiệp giống như đang soi gương thấy rõ mặt mình dơ hay sạch.
(Xem: 2338)
Cứ mỗi độ Vu Lan lại về với chúng ta, chính lúc đó là mùa Báo Hiếu, không biết bao nhiêu người con, từ khắp bốn phương nhớ tưởng đến công lao sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ…!
(Xem: 2202)
Thỉnh thoảng chúng ta nghe rằng bạn này tu theo Thiền Chỉ, và rồi nghe rằng bạn kia tu theo Thiền Quán.
(Xem: 2430)
Bài pháp thoại này được nói tại một ngày tu Chánh niệmTu viện Tisarana, vào tháng Ba năm 2008.
(Xem: 2422)
Bài viết này được chuyển thể từ một bài báo xuất bản đầu tiên trên Tina Lear's Medium.
(Xem: 2140)
Hình như bất cứ lãnh vực nào, bước vào chuyên sâu, đều luôn có những chướng ngại, hoặc chướng duyên;nhất là hành giả trên con đường tâm linh giải thoát.
(Xem: 2238)
Về câu hỏi, thế nào là thời mạt Pháp? Tôi được nghe câu trả lời của Đức Đạt Lai Lạt Ma trong buổi nói chuyện tại chùa Viên Giác
(Xem: 2449)
Phàm phu thì sống trong thức phân biệt, nên thấy có sanh tử và không ra khỏi. Trái lại, bậc thánh thì sống trong trí và do đó thoát khỏi sanh tử:
(Xem: 2261)
Phàm là người xuất gia ở chốn Tòng Lâm, tự viện, phải sống đời phạm hạnh, nghiêm trì giới luật đã thọ, giữ gìn oai nghi tế hạnhtrang nghiêm tự thân, kính trên nhường dưới, từ ái với mọi người.
(Xem: 1738)
Bất cứ trong một tổ chức nào, từ chính trị đến xã hội, từ Tôn giáo đến đoàn thể…đều cần có một lý thuyết nền tảng vững chắc để làm cơ sở triển khai mọi sinh hoạt.
(Xem: 2192)
Mỗi ngày trong cơ thể ta đều có những tế bào cũ chết đi và những tế bào mới sinh ra nhưng có bao giờ chúng làm đám tang hay tổ chức sinh nhật cho chúng đâu
(Xem: 2509)
Chúng ta thường nghe nói rằng Thiền Tổ Sư là dạy pháp vô niệm, vô tâm.
(Xem: 2436)
Như lý tác ý là khởi nghĩ, hướng tâm về mọi sự vật và hiện tượng đúng như lời dạy của Đức Phật.
(Xem: 2336)
Một thời Đức Phật trú tại nước Xá-vệ, ở trong Thắng Lâm, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ Thế Tônnói với các Tỳ-kheo:
(Xem: 2267)
Thân là thân thể của con người. Niệm là ghi nhận, quan sát. Xứ là lĩnh vực, là đề mục để hành giả quan sát tu tập.
(Xem: 2636)
“Chiếc áo không làm nên nhà sư”, nghĩa bóng của nó như một lời nhắc nhở mọi người, đừng vội đánh giá người khác qua hình thức bên ngoài.
(Xem: 2455)
Có phải bây giờ đã tới thời mạt pháp? Hay là sắp tới thời mạt pháp?
(Xem: 1990)
Tánh Không được đồng hóa với như mộng. Đây là điều hệ thống Kinh Đại Bát Nhã thường nói.
(Xem: 2400)
Toàn thể thế giới chúng ta, bên ngoài là thế gian, bên trong là tâm. Tất cả chúng là một biển vô tận của các pháp hữu vi đang vận hành.
(Xem: 1878)
Việc tu tậpthiền viện nhấn mạnh vào việc hoàn thành mọi công tác tốt đẹp. Là tu sĩ, chúng tôi đặt nặng giá trị của việc chánh niệm về những điều bình thường
(Xem: 1822)
Danh vọng nương nơi cái tôi mà tồn tại. Không có cái tôi, danh vọng không hiện hữu.
(Xem: 2537)
Đã tử lâu lắm rồi, người Phật tử đã nghe nói về thời mạt pháp.
(Xem: 2300)
Gần đây chúng ta thấy xuất hiện trên mạng xã hội nhiều bài viết kêu gọi người Phật tử phải cảnh giác với việc “trộm tăng tướng” hay “tặc trụ”.
(Xem: 1975)
Trong nhiều bài pháp tôi đã viết, thì thường đề cập đến vấn đề làm phước, tích phước, tích đức, hay tu thiện... V
(Xem: 2748)
Bố thícúng dường là một trong những hạnh đầu tiên để làm cho cõi này tốt đẹp hơn, và là những bước đi đầu tiên của Phật tử trên đường giải thoát.
(Xem: 1912)
Thuyết âm mưu không phải là vấn đề mới, nó vốn xảy ra từ xa xưa, bên Đông hay bên Tây đều có cả.
(Xem: 2714)
Sự xuất hiện của hành giả Thích Minh Tuệ đã tạo ra một biến động chưa từng có trong lịch sử Phật Giáo Việt Nam.
(Xem: 2591)
Bệnh đau là chuyện tất yếu của con người. Trừ những người có phước đức về sức khỏe sâu dày, còn lại hầu hết đều trải qua bệnh tật.
Quảng Cáo Bảo Trợ
free website cloud based tv menu online azimenu
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant