Tu hành muốn thành công hẳn ai cũng biết phước và trí đều phải đầy đủ, trang nghiêm. Thiếu một trong hai thứ thì không thể vượt sang bờ kia, thành tựugiải thoáttối hậu. Như hai cánh của con chim, phước và trí nâng đỡ lẫn nhau giúp cho người tu đạt đến tự giác, giác tha, giác hạnhviên mãn.
Nói một cách dễ hiểu, có phước báo mới có đủ phương tiệntu tập và hành đạo, làm lợi mình và lợi người, mang lại lợi ích to lớn cho số đông. Phước báo ở đây cụ thể là có sức khỏe, tài vật đầy đủ, mọi Phật sự đều như ý, hanh thông, thuận lợi. Đức Thế Tôn đã dạy về công năng của phước báo trong tu tập như sau:
“Một thời Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Các thầy chớ sợ phước báo. Sở dĩ như thế là vì đây là sự hưởng an vui rất đáng nên yêu thích. Sở dĩ gọi là phước vì có quả báo lớn này. Các thầy hãy sợ không phước. Vì sao thế? Vì đây là nguyên gốc của khổ, sầu lo, khổ não, không được vừa ý, không có yêu thích. Đây gọi là vô phước.
Tỳ-kheo, Ta nhớ ngày xưa bảy năm hành lòng từ, lại qua bảy kiếp không đến cõi này, lại trong bảy kiếp sanh cõi trờiQuang Âm, lại bảy kiếp sinh cõi trời Không Phạm làm Đại Phạm Thiên không ai sánh bằng, thống lãnh trăm ngàn thế giới, rồi ba mươi sáu lần làm Trời Đế Thích, vô số đời làm Chuyển luân Thánh vương.
Thế nên, này các Tỳ-kheo, làm phước chớ có mỏi mệt. Vì sao thế? Hưởng vui rất đáng yêu thích. Thế nên gọi là phước. Các thầy nên sợ vô phước. Vì sao thế? Vì là nguồn gốc của khổ, sầu lo, khổ não, không được vừa ý. Đây gọi là vô phước.
Bấy giờ Thế Tôn bèn nói kệ: “Vui thay, phước báo/ Sở nguyện được thành/ Mau đến diệt tận/ Đến chỗ vô vi/ Cho dù số ức/ Thiên ma Ba-tuần/ Cũng không thể nhiễu/ Người tạo phước nghiệp/ Kia hằng tự cầu/ Đạo của Hiền Thánh/ Liền trừ hết khổ/ Sau chẳng có lo”.
Thế nên, này các Tỳ-kheo, làm phước chớ chán. Thế nên, này các Tỳ-kheo, hãy học điều này!
(Kinh Tăng nhất A-hàm, tập I, phẩm Hộ tâm, VNCPHVN ấn hành, 1997, tr.116) Rõ ràng, thiếu phước thì khó có thể tu tậptiến bộ và thành công, nên “làm phước chớ có mỏi mệt”, “làm phước chớ chán” là hạnh tu căn bản. Đức Phật khẳng định, người tu có phước báo sâu dày thì thiên ma Ba-tuần cũng không phá hoại được. Phước báo cũng là nền tảng quan trọng để tịnh hóa phiền não, đạt đếnvô vi Niết-bàn, nên Phật đã răn nhắc “chớ sợ phước báo”, “nên sợ vô phước” mà thôi.
Tuy nói thế nhưng với người tu mà tâm lực và trí lực còn yếu thì phải dè chừng tâm tham đắm lợi danh khi phước báo ngày mỗi thêm nhiều. Cần thiết lập thăng bằng giữa phước và trí mới có thể thăng hoa tâm linh. Bởi nếu không có trí soi sángdẫn đường thì phước báo đôi khi khiến cho người tu tự mãn, ỷ lại, phung phí thì nó lại là trở lực cho giác ngộ, giải thoát.
Thế nên trong thực tế, không ít người tu khi thấy phước đến nhiều quá lại sợ. Vô phước đáng sợ thì đã đành, vì sao có phước mà lại sợ? Sợ tâm mình không đủ sáng suốt để xem phước báo chỉ là phương tiện. Rõ biết là phương tiện thì không kẹt, dính mắc vào nó. Như chiếc bè, phương tiện để qua sông, chưa qua sông mà bỏ bè thì chết chìm, qua sông rồi mà cứ ôm chặt chiếc bè thì cũng chết mòn mà thôi. Mới hay, “chớ sợ phước báo” là cả một khung trời tuệ giác. Minh triết chính là biết vận dụng phương tiệnphước báo để tu hànhtự lợi, để làm lợi lạc cho hữu tình mà trọn không mảy may dính mắc. Thì ra, với người có tuệ giác vượt bờ, thấy hết thảy là phương tiện thì phước và trí luôn hỗ tương, có mặt trong nhau để phước trí cùng đều tròn đủ, trang nghiêm.
Buổi lễ khai giảng diễn ra trong bầu không khí trang nghiêm và trầm lặng đầy nước mắt, bao trọn hình ảnh của cố Hòa ThượngMinh Tâm trong những lời phát biểu.
“Tự tri-tỉnh thức-vô ngã” là đạo lí của vũ trụ, là mẫu số chung của ý nghĩa cuộc sống, là Thiền; mang năng lượngtích cực có lợi cho toàn vũ trụ, cho sự thăng hoa trí tuệ-tâm linh chung của tất cả.
Tất cả những giáo lý của Đức Phật căn cứ trên Bốn Chân Lý Cao Quý. Trong giáo lý Bốn Chân Lý Cao Quý chúng tanhận ra hai tập hợp của nguyên nhân và hệ quả.
Thầy dìu dắt từ đó tôi được tiếp xúc gần và rất gần Ngài do vậy tôi học ở ngài được nhiều thứ trong cuộc sống, giờ giấc, tinh tấn, chuyên cần , nhất là việc tu tập v.v...
Một trong bốn chân lý mà Đức Phật dạy là chân lý về sự khổ, khổ đế trong Tứ diệu đế. Đức Phật dạy bản chất của thế gian là bất toàn, bất toại nguyện, là vô thường, là đau khổ.
Chẳng có gì đơn độc sinh ra, tồn tại, chuyển động, và biến mất giữa cõi đời. Chẳng có gì gọi là độc hành, độc lập, độc bộ, độc cư, cô thân, cô độc, cô đơn…
Đâu hay tất cả đều là sự công bằngtuyệt đối khi ta soi vào nhân duyênnghiệp báo không chỉ ở kiếp này mà từ những kiếp quá khứ và vị lai được giải thíchcặn kẽ trong kinh điển nhà Phật.
Trong giáo lý của đạo Phật, “cho sự không sợ hãi” được xem là một hạnh nguyện cao quý gọi là vô úy thí (abhada-dàna), là Thánh hạnh (Ariya-cariyà), thiện hạnh (kusala- cariyà)
“Vũ trụ mà tôi và bạn thể nghiệm bây giờ, với cây cối, nhà máy, con người, nhà cửa, xe cộ, hành tinh và các thiên hà, chính là ý thức biểu hiện ở một tần số đặc biệt nào đó."
Sau khi quy y Tam bảo, trở thànhPhật tử rồi thì kính lễ, cúng dường Phật-Pháp-Tăng mỗi ngày, mỗi lúc là một trong những hạnh tu căn bản của người con Phật.
Đọc trong “Tưởng Niệm và Tri Ân,” người đọc sẽ thấy nhà thơ trẻ của chúng ta lúc nào, ở đâu và đối với bất cứ điều gì cũng nghĩ đến ân đức và tình nghĩa.
Không có người bạn nào tốt hơn cho tương lai hơn là bố thí - ban cho tặng phẩm thích đáng. Đối với tu sĩ, giáo sĩ, người nghèo, và bạn hữu - Biết những tài sản là chóng tàn phai và vô lực.
Có lẽ ngày nay nhân loại đã thực sự thức tỉnh và nhận ra rằng, không ai có thể cứu rỗi được cho ai hết. Và sẽ không có một thiên đường nào ở ngày mai...
Tất cả chúng ta vì bị vô minhche lấp nên khi có mặt trên thế gian đều không có nhận thứcsáng suốt, do đó ta chỉ lo thụ hưởng sự ăn uống mà nhẫn tâm giết hại các loài vật.
Bệnh tật là một nỗi khổ căn bản của chúng sanh, sanh lão bệnh tử khổ. Hễ có thân thì có bệnh, mà đã bệnh tật đau yếu thì không ai muốn và chẳng vui chút nào.
Nghiệp là một thói quen được tích lũy từ ba nghiệp thân, khẩu, ý, đồng hành với chúng ta trong từng hơi thở, gắn bóthủy chung từ khi ta vừa lọt lòng mẹ cho đến ngày ta nhắm mắt xuôi tay.
Một vài chiếc thuyền máy lướt qua, tạo những vòng sóng từ nhỏ đến lớn, tỏa ra rồi tan biến trên mặt hồ. Bọt trắng lao xao nổi bật trên giòng nước xanh.
Đạo Phật là đạo giác ngộ. Giác ngộ là thấy tánh. Muốn thấy tánh thì tu thiền, như đức Thích Ca Mâu Ni do thiền dưới gốc câyBồ Đề mà giác ngộthành Phật.
Nhờ chút công đứcphóng sanh ngày ấy cho mẫu thân mà tôi cũng được hưởng phước lây, bởi căn bệnh lạ tôi phải chịu đựng 25 năm qua bỗng dưng ra đi không nói lời từ biệt.
Nhà Phật thường nêu châm ngôn “Bi – Trí – Dũng” để khuyến khích hành giả vận dụng đầy đủ ba đức tính này trong đời sống, không để khiếm khuyết mặt nào.
Tôi ngồi lặng lẽ, nhìn những lá phong vàng sậm và đỏ ối, âm thầm rơi trong không gian tinh mơ quanh khu nhà quàn. Thấp thoáng vào, ra, là những người chít khăn tang trắng, gương mặt phờ phạc, buồn rầu.
Bài viết dưới đây được dịch từ một bản tiếng Pháp mang tựa là Compassion, medecin insurpassable (Lòng Từ Bi, một vị lương yvô song) của một học giả Phật Giáo rất uyên bác là bà Sofia Stril-Rever.
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.