Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Dấu Ấn Thần Tượng Trong Đời Tôi Với Vị Thầy Khả Kính

29 Tháng Sáu 201406:39(Xem: 9689)
Dấu Ấn Thần Tượng Trong Đời Tôi Với Vị Thầy Khả Kính


DẤU ẤN THẦN TƯỢNG TRONG ĐỜI TÔI VỚI VỊ THẦY KHẢ KÍNH


Đầu năm 1991 gia đình tôi được đoàn tụ tại nước Đức, chân ước chân ráo tôi đặc chân lên nước Đức đất khách quê người không một người thân, bất đồng ngôn ngữ. Đến nước Đức đoàn tụ gia đình ở tại trại Nazarech được anh Thị Lộc, Gia đình Phật Tử Minh Hải và cô Thị Khiêm (tức Sư Cô Hạnh Thông bây giờ) hướng dẫn đưa về Hannover gặp Thầy Trụ Tri chùa Viên Giác tức Hòa Thượng Phương Trượng hiện nay. Thật là một đại phước duyên cho tôi, bản thân tôi vì nghiệp dày phước mỏng bận bịu gia duyên nên không có nhân duyên xuất gia, nhưng được Thầy dìu dắt từ đó tôi được tiếp xúc gần và rất gần Ngài do vậy tôi học ở ngài được nhiều thứ trong cuộc sống, giờ giấc, tinh tấn, chuyên cần , nhất là việc tu tập v.v... tôi áp dụng những gì Ngài chỉ bảo để tiến tu trên con đường học đạo.

Thời gian dài, cuộc sống trong xã hội đồn dập bao nhiêu chuyện thị phi ngoài đời, trong đạo, nhưng tôi được diện kiến rất gần với ngài, cuộc sống của Ngài rất đơn thuần, phong thái của Ngài rất giản dị và hiền hậu. Nhớ lại tháng 10 năm 2010 Ngài nhập Thất ở Thất Đa Bảo Úc Châu để dịch quyển ’’ Chết an lạc tái sanh hoan hỷ, nguyên tác Anh Ngữ của Đại Sư Tulku Thondrup , cùng quyển tiểu thuyết Giai nhân và Hòa Thượng’’ tôi được may mắn theo Ngài hộ Thất thời gian 3 tháng trên núi cao, chỉ có hai Thầy trò nên mới biết Ngài rất rõ, Ngài khó với những ai không chịu học, làm việc không giữ đúng giờ giấc, không tinh tấn tu tập, cái khó của Ngài là nuôi dưỡng hạt giống từ bi tạo cho con người được trưởng thành, còn ngoài ra Ngài rất dễ, bản thân tôi những ngày hộ ThấtĐa Bảo Úc Châu, ngoài việc lái xe đi Siêu Thị hằng tuần mua thức ăn 2 lần , hằng ngày đơn giản nấu 3 bữa cơm sáng, trưa và chiều, thời gian chia ra một ngày 4 thời kinh , sáng tụng Lăng Nghiêm, trưa tụng Phổ Môn, chiều tụng kinh A Di Đà, tối tụng kinh Kim Cang, đúng giờ đúng giấc nên tôi, được Thầy khuyến tấn và cũng rất dễ dãi với tôi, Ngài ăn uống rất chừng mực không hơn, không kém dù cho bữa ăn đó thức ăn có cao sang mỹ vị, hay đơn giản, nhất là buổi trưa Ngài chỉ ăn một chén cơm, với thức ăn, ngoài ra Ngài không ăn vặt phi thời. Ngài thương mọi loài chúng sanh, cứ sau bữa ăn sáng Thầy đem những thức ăn ra chia cho đàn kiến, hoặc cho đàn chim két kêu ríu rít bay nhảy trên cành, Thầy trầm tư có lần Thầy nói với tôi biết thuở nào đàn kiến, và những con chim chúng có dịp được ăn như thế này. Đối với loài vật Ngài còn thương như thế đó.

Tấm lòng bao la độ lượng của Ngài, Ngài giúp tài thí cho mọi Tăng, Ni sinh mà Ngài có duyên gặp,nhất là hằng năm ngài cấp học bỗng cho 100 Tăng, Ni sinh theo học lấy bằng Tiên Sĩ tại Ấn Độ, mỗi Tăng, Ni sinh hằng năm được nhận 600 Dolla, ngoài ra Ngài còn giúp cho các Tăng Ni sinh các nước như Việt Nam, Thái Lan, Đài Loan v.v... nơi nào có Tăng, Ni sinh Việt Nam cần là Ngài đều giúp đỡ. Ngòai ra hằng năm Ngài ủng hộ từ thiện cho những mảnh đời bất hạnh tại Việt Nam, người khuyết tật, người mù, già yếu bệnh tật nghèo khổ , trẻ em mồ côi v.v... Nơi nào xảy ra thiên tai bão lụt, sóng thần, động đất như ở Nhật Bản, Ấn Độ, Silanka, Thái Lan, Phi luật Tân, Việt Nam v.v… làm cho con người phải mang nghiệp khổ, cũng đều có cánh tay mở rộng cứu giúp của Ngài. Tình cảm thương yêu của Ngài đối với đại chúng, đối với mọi người thật dạc dào, mỗi lần đi Phật Sự nơi xa Ngài đều mang vật lưu niệm về tặng cho Phật Tử, quà, bánh, trái cây, như chuối, mít, xoài,hay kẹo bánh Sokola v..v .. cho đại chúng cùng hưởng lộc.

Trong đời này tôi có một đại nhân duyên phước đức, một Phật Tử tại gia như tôi mà được theo hầu Ngài một vị Hòa Thượng tài ba lỗi lạc, có những lần đi hành hương các nước như Nhật Bản, Thái Lan, Silanca, Ấn Độ, hay dự các khóa tu học Âu Châu ở Thụy Điển, Đan Mạch, Ý, Bỉ, Áo, Anh Quốc v..v… được nghe Ngài giảng pháp, Ngài nói lưu loát nhiều thứ tiếng, dịch nhiều kinh sách qua nhiều ngôn ngữ, Anh, Pháp, Đức, Nhật, v..v…Cho đến nay Ngài đã viết và dịch trên 65 đầu sách để lại cho hậu thế mai sau, Ngài quả là một kho tàng trí tuệ sống, một trí nhớ tuyệt vời của Ngài, lịch sử đất nước Việt Nam qua nhiều thời triều đại Ngài nhớ rất rõ, nhất là những bài thơ từ thuở học trò bây giờ Ngài đọc lại vanh vách, trong những lần tạm ngưng các bài giảng pháp, bài thơ Nhớ Chùa của cố Hòa Thượng Mãn Giác gồm 36 hàng 252 chữ Ngài ngâm thơ không sót chữ nào.Từ khi ra đi du học đến giờ ngài chưa một lần đặt chân về đất mẹ Việt Nam, nhưng tâm Ngài luôn luôn hướng về quê hương thương yêu những con người Việt Nam, do vậy bài thơ Nhớ Chùa là đề tài đầu tiên. Tôi còn nhớ năm 2010 tôi lái xe trong một chuyến đi từ Sydney đến Canbenrra thăm chùa Vạn Hạnh ở nước Úc khoản đường dài trên 250 km Ngài với một vị Thượng Tọa cùng đi trên chuyến xe, để kiểm chứng lại trí nhớ hai vị đã đọc hết bản kinh Di Giáo của Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật trước khi nhập Niết Bàn. Còn ở Đức khi lái xe đưa Ngài đi Phật Sự thì khỏi cần dùng Navigation chỉ đường, không con đường nào Ngài không nhớ, địa chỉ nào Ngài cũng không quên một khi Ngài đã đến, trên đường đi Ngài luôn luôn nhắc nhở lái xe cẩn thận, và nói những mẫu chuyện ngắn, Ngài ban những pháp thoại quý báu do vậy mà suốt trong thời gian lái xe tôi không buồn ngủ đưa Ngài đi Phật sự được hoàn mãn an toàn, đi đến nơi về đến chốn.

Trên 23 năm mỗi lần tôi về chùa làm công quả hay sinh hoạt dự các khóa tu tại chùa Viên Giác một tuần, 10 ngày hay 15 ngày, tôi thường nghe Ngài dạy là người đệ tử của Phật, phải hạ thủ công phu chuyên trì bái sám, tụng niệm, kinh chú thì con đường tu tập mới tăng tiến được, Ngài trên 50 năm mỗi sáng Ngài tụng Kinh Lăng Nghiêm không bỏ một ngày, việc bái sám lễ lạy hằng năm cứ vào mùa an cư kiết hạ Lạy kinh Đại Bát Niết Bàn mỗi tối lễ lạy trên 300 lạy nhứt tự nhứt bái suốt trong thời gian mùa an cư. Nhờ đạo hạnh của Ngài ánh sáng hào quang chiếu rọi mà hàng Phật Tử tại gia ở chùa Viên Giác nói riêng, trong các Đạo tràng ở nước Đức nói chung có rất nhiều vị phật tử thuộc làu kinh Lăng Nghiêm.

Tuy Ngài làm việc nhiều, sáng tác nhiểu đầu sách dịch kinh hăng say, có tài hùng biện, giảng pháp, dạy học v.v... nhưng bao giờ Hòa Thượng cũng luôn luôn khiêm tốn Ngài nói rằng, Hòa Thượng là một nông dân của quê hương xứ Quảng; và trong suốt quá trình hoạt động đó Hòa Thượng luôn nguyện rằng: Mình là một dòng sông để chuyên chở những trong đục của cuộc đời và sẽ là mặt đất để hứng chịu những sạch nhơ của nhân thế.

Nhân Ngày Khánh Tuế 28.06.2049 – 28.06.2014.- 65 tuổi Tây (1949 – 2014) tức 66 tuổi Ta của Hòa Thượng, Phương Trượng Chùa Viên Giác,  50 Năm Xuất GiaHành Đạo, chúng con xin viết những : DẤU ẤN THẦN TƯỢNG TRONG ĐỜI TÔI VỚI VỊ THẦY KHẢ KÍNH.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Đệ tử Nguyên Trí (Nguyễn Văn Tâm)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 593)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 778)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1100)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1268)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 997)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1337)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 787)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 761)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 806)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 822)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 801)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 790)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 945)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 833)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 988)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 1005)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 929)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 931)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 857)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 1013)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 953)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 897)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 995)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 908)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 850)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 958)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 884)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1143)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 913)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 1014)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1153)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1615)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1163)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1259)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1112)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 976)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 918)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 960)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 803)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1485)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1365)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1330)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1274)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1378)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1333)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1478)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1354)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1207)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1265)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1326)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant