Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đọc: “Hạt Cát Mịn” Thi phẩm của Song Thu

27 Tháng Mười 201409:41(Xem: 10218)
Đọc: “Hạt Cát Mịn” Thi phẩm của Song Thu

Đọc: “Hạt Cát Mịn” Thi phẩm của Song Thu

                                          

hat cat minTrần Đan Hà

 

Hạ tuần tháng mười vừa qua, HT Thích Như Điển Phương trượng chùa Viên Giác về hướng dẫn khóa tu Bát Quan Trai Giới tại tỉnh Reutlingen. Nhân dịp nầy, Thầy mang quà tặng về cho Phật tử địa phương, đó là  tác phẩm thứ 63 của thầy với tựa đề: “Hiện Tượng của Tử Sinh”. Đồng thời thêm một quà tặng của Bào huynh thầy: Thi phẩm “Hạt Cát Mịn” của Song Thu (Bút danh của HT Thích Bảo Lạc).


Chúng con xin cung kính đảnh lễ và cảm niệm Công đức của nhị vị Ân Sư. Cũng như xin trân trọng những tấm lòng từ bi đối với tha nhân qua những lời nguyện ước. Như người làm từ thiện chỉ biết cho, với cái tâm mong cầu mọi người đón nhận sự hỷ lạc:

 

 “Nếu có được niềm hỷ lạc nào sau khi quý độc giả xếp tập thơ lại; đó là món quà tinh thần cao đẹp mà quý vị dành tặng tác giả. Kính nguyện tất cả chúng ta sống an lạc hạnh phúc trong tin yêu và xây dựng một đời sống tốt đẹp giải thoát. (trích Lời mở đầu).

 

   Thông điệp nầy chẳng những ví như tấm lòng của các vị Bồ tát luôn nghĩ đến tha nhân và cầu mong cho vạn loại chúng sinh được sở cầu như nguyện. Đồng thời còn đi tìm mọi pháp nuôi dưỡngchuyển hóa tự thân và tha nhân trong tình thương yêu đồng đạo. Thế nên con xin mạo muội ghi lại những cảm nghĩ sau khi đọc xong thi phẩm; cũng như những đồng cảm của mình và trân trọng xin giới thiệu đến độc giả khắp nơi.

 

                                                                        ***

  Theo thiển nghĩ, Thi phẩm “Hạt Cát Mịn” như bản tóm lược, hay nói khác thì đây là công trình “Thi Hóa Duy Thức Học” để làm tài liệu tu học. Một môn học quan trọng bậc nhất đối với người học Phật. (Ngày xưa Thầy Tuệ Không đã thi hóa Kinh Kim CangKinh Pháp Cú thành Kinh Hiền và Kinh Ngọc. Đến bây giờ là Thầy Bảo Lạc, với môn Duy Thức). Một việc làm hết sức khó khăn mà tác giả vẫn kiên trì thực hiện. Có lẽ nhờ vào những trợ duyên như đã ghi lại trong “Lời mở đầu”: Khung cảnh hùng vỹ của núi đồi Blue Mountain, nơi có ngôi già lam Đa Bảo cùng với sự đóng góp công quả của những Phật tử địa phương. Như bìa sách do Thầy Nguyên Tạng và họa sĩ Quảng Pháp Tấn - Ngọc Minh trìng bày. Cùng các PT. Tâm Quảng, Chúc Ý, Văn Tính, Châu Ngọc góp phần in ấn.

 

   “Hạt Cát Mịn” có thể ví như hóa thân của các tư tưởng lớn trên thế giới, được phân tích từ Thân và Tâm của con người qua những phạm trù như Lý trí và Tình cảm. Đây là những lãnh vực hết sức phức tạp không thể nghĩ bàn. Nhưng chỉ được rút gọn lại trong thể loại thơ Lục Bát của Việt Nam. Cho nên không thể tránh khỏi những “nghịch cảnh và chướng duyên”. Trước tiênphạm trù ngôn ngữ: “Thơ Lục bát là loại thơ mềm mại uyển chuyển, nên cần nhiều từ vận Bằng. Thế nhưng trong Ngôn ngữ học của các đề tài như Phân Tâm Học, Duy Thức Học bao gồm rất nhiều từ vần Trắc như: Xúc, Tác ý, Thọ, Tưởng, Dục, Thắng giải, Niệm, Định, Huệ, Vô tưởng định, Diệt tận định, hòa hợp tánh, Bất hòa hợp tánh, Tưởng thọ diệt, Bất động diệt, Vô thường Vô ngã…Thứ hai, đã gọi là Luận thì không thể bỏ ý thêm lời, điều nầy lại trái ngược với việc làm thơ. Thế nhưng tác giả đã vượt thắng mọi chướng duyên để thực hiện được thi phẩm nầy. Có lẽ tác giả là một tu sĩ với bản nguyện là “Hoằng Pháp độ sanh” chỉ xem tất cả là phương tiện (đã gọi là phương tiện thì khi đạt đến cứu cánh rồi, thì phương tiện ấy cũng vứt bỏ). Thế cho nên mỗi câu thơ như một bài pháp để hướng dẫn việc tìm ra nguyên nhân căn bệnh để đối trị. Khi đã tìm ra nguyên nhân, thì cần phải luận bàn về công việc tương tác, tương tức với ngoại cảnh, để sống hòa cùng thiên nhiên vạn vật. Như đi tìm chiếc chìa khóa mở cánh cửa để bước vào cảnh giới hạnh phúc an lạc. Đó là mục đích của người tu học theo Phật giáo. Ví dụ như tìm hiểu về “Tâm Hành” để dẫn dắt con người đì về hướng chân thiện mỹ. Hay là thực tập những pháp môn để đưa tâm về với thế giới bình an. Vì cổ đức có nói “Tâm bình thì thế giới bình”.

 

   Nên tác giả đã không ngại khó, không sợ chướng duyên mà ra tay nghĩa hiệp. Nhờ vào thắng duyên như có nơi chốn tịnh lạc để tĩnh tu với khung cảnh: “Sáng nghe chim ca hót. Quen thuộc tiếng gọi mời. Vừng hồng vừa lộ hiện. Ngày mới rộn tinh khôi” (Ngày tinh khôi). Phong cảnh hữu tình đối với những tâm hồn thoát tục. Như cuộc sống của những đạo sĩ chọn nơi chốn thuận tiện để an thân lập mạng. Chiều chiều với gậy trúc vân du, hay những đêm trăng ngồi uống trà thưởng nguyệt. Hoặc chiêm nghiệm cuộc đời để tìm ra chân lý, để thấy được chân như. (Như ngày xưa Tất Đạt nhiều đêm ra ngồi bên dòng sông soi bóng để tìm lại “Bản lai diện mục” trong Câu Chuyện Dòng Sông của Hermann Hesse)

 

   Nơi đây đã cho tác giả cảm hứng đối với việc suy niệm về cuộc đời. Về những câu hỏi làm nát óc biết bao nhiêu nhà tư tưởng lớn của nhân loại: “Ta từ đâu đến? Và sẽ đi về đâu”? Hình như tác giả cũng mong muốn đi tìm một câu trả lời thỏa đáng, nên đã dụng công hình thành tác phẩm nầy để làm phương tiện, giúp cho những ai đang mong cầu tu học theo đạo giải thoátgiác ngộ của đức Từ phụ Thích Ca.

                              

   Xin lược qua những phần quan trọng của nội dung thi phẩm: Thi phẩm Hạt Cát Mịn được chia ra năm tiểu mục với những chủ đề như sau: Thức Tâm. Sắc Trần. Tâm-Vật lý. Thân phận. Phong cảnh.

 

   Ba phần đầu, tác giả cố công tìm hiểu sự hình thành, tương tức và tương tác qua sự vận hành của con người hay vũ trụ. Vì con người hay vũ trụ cũng từ trong cát bụi mà ra. Như lời một bản nhạc của cố Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn: “Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi. Để một mai tôi trở về cát bụi…”. Hay trong Kinh Hoa Nghiêm đã diễn tả cái trùng trùng duyên khởi: “Tam thiên Đại thiên Thế giới chỉ nằm trong hạt cải mòng”. Hay “một là tất cả, và tất cả là một”.

 

  Thức tâm gồm 100 pháp duy thức là: Trăm pháp. Tâm thường như. Chuyển thức thành trí. Tâm vương. Tâm sở. Tâm bất tương ưng. Vô vi pháp. Căn bản phiền não. Tùy phiền não. Các tâm sở thiện. Còn phần sau như một phụ trang diễn tả thân phận và cuộc sống của con người đối với bản thânxã hội; những cảm tác về phong cảnh thiên nhiên, qua những lần Thi nhân đi chiêm quan phương ngoại.

 

   Xin trích dẫn một phần nhỏ của những đề mục chính trong “Trăm Pháp”.

 1)- Trăm pháp: Chuyển dịch Đại thừa Bách pháp Minh môn (lời luận của Thế Thân Bồ tát về Tâm pháp). Sau đây là phần luận về Tâm vương ví như một vị vua điều hành các Bộ các Ngành. Để đem lại thanh bình thịnh trị cho quốc gia xã hội.

  Trong Bách pháp quan trọng nhất là Tâm vương:

 

  “Thử xem tám pháp Tâm vương

   Như vua một nước đảm đương trị vì

   Bao gồm các Bộ, Sở, Ty

   Điều hành sắp đặt thực thi chế tài”

 

   -Tâm sở:

   Tưởng là nghĩ ngợi lo xa

   Suy lường tưởng tượng non già thiệt hơn

   Tự lo xét nét nguồn cơn

   Do ý hành động thiện chơn đẹp lòng

   Năm điều bốn chuyện bên trong

   Biến thiên pháp giới khắp cùng hư không

 

   -Tâm bất tương ưng:

   Bất tương ưng hành hửng hờ

   Hai mươi bốn món dựa nhờ Tâm vương

   Đắc là đạt được ứng tương

   Phá ngã chấp Pháp thoát đường lầm mê

 

  - Vô Vi Pháp:

   Pháp Vô vi thật khó lường

   Không hình vô tướng dễ thường cân đo

   Pháp tuyệt đối pháp thẩm sâu

   Lìa sanh diệt ứng hiệp ngay Niết Bàn.

 

   Các pháp hữu vô lược qua

   Muôn hình vạn trạng quả là rộng dung 

   Từ phàm tới thánh cộng thông

   Cùng tu đồng chứng Pháp thân Bồ Đề.

 

   -Căn bản phiền não:

   Căn bản phiền não bẩm sinh

   Theo ta như bóng với hình sánh đôi

   Đầu thai chuyển kiếp luân hồi

   Thoát vòng tăm tối chào đời hài nhi

 

  -Tùy phiền não:

   Nhóm tùy phiền não theo sau

   Gồm hai mươi món như bao lá cành

   Ba phẩm thứ tự hợp thành

   Tiểu tùy mười món phần hành khác nhau

 

   Phẩm hay giận dỗi nhớ dai

   Hận luôn ghim gút thù ai khó hòa

   Phú che dấu tội tối đa

   Não luôn tâm trạng tỏ ra buồn phiền

 

   -Các tâm sở thiện:

   Hoàn toàn tâm lý hiền lành

   Ưa làm lợi ích chúng sanh giúp đời

   Giác ngộ giải thoát tuyệt vời

   Thế hay xuất thế đồng thời dựng nên

 

   -Các yếu tố của tâm thiện:

 a)- Tinh tấn là hạnh chuyên tinh

   Siêng năng thắng lướt ngoại hình quản chi

   Ác chưa sanh quyết trừ đi

   Sanh rồi diệt sạch dứt truy đến cùng

 

 b)-Tàm là tự xấu hổ riêng

   Tôn trọng danh dự thiêng liêng của mình

   Không làm thương tổn ô danh

   Giữ gìn thể diện tiếng lành đồn xa

 

 c)-Quý cùng e thẹn người bên

   Lo sợ dư luận kịp kềm dừng tay

   Đối trị vô quý dứt ngay

   Ngăn ngừa việc ác khó mà phát sanh

 

 d)-Vô tham là hạnh đẹp xinh

   Của tiền bố thí hòa bình ngoài trong

   Thái độ thân thiện ân cần

   Phấn chấn vui vẽ phát tâm Bồ đề

 

 e)-Vô sân là liều thuốc thần

   Chửa bệnh nóng giận trị căn thù hằn

   Dù gặp nghịch cảnh trái ngang

   Tâm luôn bình tỉnh vui an tròn đầy

 

   Chận ngay đóng bít sân rào

   Để cho thiện niệm dạt dào phát sinh

 

 g)-Vô si có vẽ đàn anh

   Ung dung thư thái tâm thành sáng trong

   Chẳng cho mê muội lạc lầm

   Một bề sáng suốt kiếm tìm minh sư

 

 h)-Khinh an nhẹ bước vân du

   An nhiên tự tại tâm thư thái hòa

   Điềm tỉnh trước mọi vấn đề

   Họa tai biến cố chưa hề động giao.

 

 i)-Bất phóng dật thật thiện toàn

   Không buông lung ấy mới trang anh hào

   So tài đấu trí thấp cao

   Lồng trong khuôn khổ nhà giao đức dày

 

 k)-Hành xã mọi việc thỏng buông

   Hành mà không chấp in tuồng khó thay

   Không quan tâm đến khen chê

   Không tự hào cũng chẳng hề nêu công

 

   Tứ chúng giác ngộ chăng là

   Cũng xem như gió thoảng qua bầu trời

   Con người tự tại thanh mai

   An vui giải thoát gót hài nhẹ lâng

 

l)-Bất hại tâm lý sau cùng

   Không làm thương tổn muổi mòng sinh linh

   Tâm từ trải rộng thênh thênh

   Tôn trọng sự sống vững bền chúng sanh.

 

   Cỏ cây đất đá vô tình

   Núi sông biển cả môi sinh cũng vầy

 

Phần II:-Sắc trần:

 

   1) Sắc pháp

   Chủng loại sắc pháp bao hàm

   Năm căn chung với sáu trần kết nên

   Sinh lý về phần năm căn

   Đổi trao vật lý dò phăng sắc trần

 

   2) Thanh trần:

   Thanh trần là tiếng nhân gian

   Xưa nay tiếp diễn nhịp nhàng trước sau

   Cũng vì mê luyến đắm say

   Bao người vướng víu thoát ngay được nào.

 

   3)-Hương trần:

   Mùi hương phảng phất dễ ưa

   Ai mà chẳng thích thoáng vừa nhẹ lâng

   Phân thành sáu loại hương trần

   Càng thêm ý vị tăng phần gấm hoa

 

   Ba điều sáu chuyện vừa nêu

   Cơ quan khứu giác mủi đều ngất ngây

   Mùi hương chiên đàn nhẹ bay

   Hương người đức hạnh ngược quay gió ngàn

   Hương giải thoát ngát trần gian

   Thơm lừng pháp giới Niết Bàn tinh nguyên

 

   4)- Vị trần:

   Vị trần gồm có mười hai

   Mặn, ngọt, chua, đắng, lạt, cay, nồng nàn

   Vị vừa ý, vị cường toan

   Khó mong đáp ứng vẹn toàn dưới trên

 

   5)- Xúc trần:

   Xúc ưa đụng chạm mịn trơn

   Mỏng nhẹ, láng mướt, chập chờn làn da

   Thích nghi hoàn cảnh tối đa

   Muốn thân sung sướng hóa ra khổ nhiều.

 

   Phần III:- Tâm -Vật lý: Tâm-Vậy lý trước thời đại.

   Do nhiều phần tử hợp nên

   Nhiều phe phái mượn gióng lên tranh giành

   Sanh ra xâu xé phân tranh

   Chủng tộc, xã hội hình thành quốc gia…

 

(Là sự tổng hợp tư tưởng triết gia từ Đông sang Tây, từ những triết học cổ La Hy trước Công Nguyên như Aristotle (384-322) đến Decartes (1596-1650)-Newton (1643-1727)-Galileo (1564-1642)- Albert Einstein…)

 

Trong công việc tương tác ấy, tác giả cũng đã bắt gặp những ý tưởng hay, được lồng vào trong những câu thơ đẹp, qua: “Các yếu tố của tâm thiện”:

 

   “Chận ngay, đóng bít, sân rào

   Để cho thiện niệm dạt dào phát sanh”

 

   “Điềm tỉnh trước mọi vấn đề

   Tai họa biến cố chưa hề động giao”

 

   “Không quan tâm đến khen chê

   Không tự hào cũng chẳng hề nêu công”

 

  “Con người tự tại thanh mai

   An vui giải thoát gót hài nhẹ lâng”

 

  “Tâm từ trải rộng thênh thênh

   Tôn trọng sự sống vững bền chúng sanh

   Cỏ cây đất đá vô tình

   Núi sông biển cả môi sinh cũng vầy”

 

  “Giữ tâm thiết thạch kiên trinh

   Không hề nao núng thế tình thị phi

   Ung dung tự tại duy trì

   Kiện toàn tổ chức phát huy pháp mầu

   Ngàn xưa mãi đến ngàn sau

   Tâm không, vật cũng nhuốm màu hư không”

 

   Phần VI và V: “Thân phận và Phong cảnh” gồm những bài thơ “độc lập” như góp vào những bông hoa làm nên hương sắc cho đời, hương sắc giải thoát:

 

  “Cùng tu cùng học đồng hành

   Đồng giải nghiệp lực tử sanh luân hồi

   Tỏ tường lóng gạn khúc nôi

   An vui tự tại cảnh đời tịnh an

   Đẹp xin chín phẩm sen vàng

   Di Đà từ phụ phóng quang rước về…”

 

  “Thành tâm khấn nguyện Như Lai

   Đạo vàng bền vững hoằng khai rạng ngời

   Cõi người, cõi thánh, cõi trời

   Địa ngục, ngạ quỷ đồng thời súc sanh

   Tin sâu, niệm vững, chí bền

   Đồng tu đồng chứng đồng lên Niết Bàn”

 

   Để rồi cuối cùng đi đến một lập nguyện:

 

    “Đường giải thoát nguyện bước lên

      Đơm hoa bát nhã kết nên sen hồng”

 

   Là gói ghém tất cả những tâm nguyện của Thi nhân, với một tấm lòng hướng đến giác ngộgiải thoát. Cho nên thơ cũng được giải phóng khỏi thế giới đời thường. Như cố Thi sĩ Vũ Hoàng Chương diễn tả:

 

     “Chữ bay từng cánh chim ngàn.

      Mỗi câu là một Niết Bàn hóa thân”.

 

   Muốn có tập thơ “Hạt Cát Mịn” xin liên lạc về:

                 Chùa Pháp Bảo

          148- 154 Edensor Road,

 St Johns Park, NSW 2176 Australia.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 595)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 781)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1104)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1268)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 997)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1342)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 792)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 763)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 808)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 823)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 803)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 790)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 948)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 835)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 988)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 1007)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 931)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 932)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 858)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 1015)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 956)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 897)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 995)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 910)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 851)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 958)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 885)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1144)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 916)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 1017)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1157)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1617)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1165)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1261)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1113)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 978)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 921)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 960)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 806)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1486)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1366)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1330)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1274)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1381)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1334)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1478)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1355)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1208)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1267)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1326)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant