Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Cảm Nhận Tác Động Của Mối Liên Hệ Hổ Tương

03 Tháng Tư 201516:50(Xem: 9688)
Cảm Nhận Tác Động Của Mối Liên Hệ Hổ Tương

Cảm Nhận Tác Động Của Mối Liên Hệ Hổ Tương

Dalailama 

 

Nếu quan điềm sai lầm rằng con người và sự vật tồn tại một cách độc lậpnguyên nhân của tất cả những quan điểmcảm xúc ẩn tàng chướng ngại, thế thì một trong những ý nghĩa chính yếu của việc vượt thắng nhận thức sai lầmphản chiếu trên sự kiện rằng tất cả những hiện tượng sinh khởi một cách lệ thuộc.  Như Long Thọ Đại Sĩ nói trong Tràng Hoa Quý Báu:

 

Khi có dài, thì phải có ngắn.

Chúng không hiện hữu qua bản chất tự nhiên của chúng.

 

Vì điều tương đối này nên tại sao người Phật tử nói rằng tất cả mọi hiện tượngduyên khởi chứ không là những sự phát sinh độc lập.

 

Qua sự phản chiếu trên duyên khởi, quý vị sẽ đánh mất lòng tin rằng mọi vật tồn tại trong chính chúng và của chính chúng.  Long Thọ nói:

 

Sự thấu hiểu qua tồn tại tự tínhnguyên nhân

của tất cả những quan điểm không lành mạnh.

Những cảm xúc phiền não không thể sản sinh mà không có lỗi lầm này

Do thế, khi tính không được thấu hiểu hoàn hảo,

 những quan điểm không lành mạnhcảm xúc phiền não

được tịnh hóa hoàn toàn.

 

Qua điều gì mà tính không được thông hiểu?

Nó được hiểu qua việc thấy duyên khởi,

Đức Phật là đấng toàn tri về thực tại, nói

Điều gì được sản sinh một cách lệ thuộc thì không phát sinh một cách cố hữu (không phát sinh do tự tính).

 

Môn đệ của Long ThọThánh Thiên nói rằng sự thấu hiểu duyên khởicần yếu cho việc vượt thắng si mê:

 

Những cảm xúc phiền não được vượt thắng

Qua việc chiến thắng si mê

Khi duyên khởi được thấy

Si mê không phát sinh.

 

Duyên khởi liên hệ đến sự kiện rằng tất cả những hiện tượng vô thường – cho dù vật lý, tinh thần, hay nếu không thì – hình thành sự tồn tai lệ thuộc trên những nhân duyên nào đấy.  Bất cứ điều gì sinh khởi lệ thuộc trên nhân duyên nào đấy thì không hoạt động một cách riêng biệt dưới năng lực của chính nó.

 

Thiền quán phản chiếu

 

1-    Đem đến tâm thức một hiện tượng vô thường như một cái nhà.

2-    Lưu tâm việc hình thành của nó trên việc tùy thuộc trên những nguyên nhân đặc thù: cây gỗ, thợ mộc, v.v…

3-    Hãy xem sự lệ thuộc này có mâu thuẩn với hiện tướng của ngôi nhà giống như nó tồn tại trong tự bản chất của nó không.

 

DUYÊN KHỞITHỰC TẠI

 

Giáo thuyết duyên khởi có thể áp dụng khắp mọi lĩnh vực.  Một lợi ích của việc áp dụng giáo thuyết này là cái nhìn một hoàn cảnh cách này cho chúng ta một bức tranh tổng thể hơn, vì bất cứ hoàn cảnh là gì – tốt hay xấu – nó tùy thuộc vào nguyên nhânđiều kiện (nhân duyên).  Một sự kiện không ở dưới năng lực của chính nó mà lệ thuộc trên nhiều nguyên nhânđiều kiện hiện diện cũng như nhiều nhân duyên của quá khứ.  Bằng như khác đi, nó không thể đi đến việc hiện hữu.

 

Khi quý vị suy nghĩ từ quan điểm này, quý vị có thể thấy nhiều hơn về bức tranh tổng thể, và từ nhận thức rộng rãi hơn này, quý vị có thể thấy thực tại của hoàn cảnh, sự liên hệ hổ tương của nó.  Với sự hổ trợ của cái nhìn liên đới này, hành động mà chúng ta thể hiện sẽ thực tếThí dụ chính trị quốc tế chẳng hạn, không có một cái nhìn như thế, một vị lĩnh đạo có thể thấy vấn đề như được tạo nên bởi một con người đơn độc, mà người ấy rồi thì trở thành một mục tiêu dễ dàng.  Nhưng điều ấy không thực tế; vấn đề rộng lớn hơn nhiều.  Bạo động sản sinh một chuỗi phản ứng.  Không có một nhận thức sâu rộng hơn, ngay cả nếu động cơ là chân thành, bất cứ cố gắng nào để quán xuyến tình hình sẽ trở thành không thực tế.  Những hành động thực hiện sẽ không được đặt nền móng một cách vững vàng, bởi vì vắng bóng của một bức tranh tổng thể, của sự hiểu biết mạng lưới của nguyên nhânđiều kiện liên hệ.

 

Trong lĩnh vực y khoa cũng thế, sẽ không đầy đủ nếu chỉ tập trung trên một nét đặc biệt nào đó. Toàn bộ thân thể cần được quan tâm đến.  Trong y khoa Tây Tạng, sự tiếp cận chẩn đoán liên hệ tổng thể hơn, đưa vào sự nghiên cứu những hệ thống tác động với nhauTương tự như thế, trong kinh tế, nếu quý vị chỉ theo đuổi một lợi ích, quý vị cuối cùng sẽ đi đến phá sản.  Hãy nhìn vào sự khủng hoảng gia tăng ở nhiều quốc gia.  Bằng vào việc lưu tâm tất cả vào quảng cáo thương mãi, thì hành động là trung tính đạo đức (phớt lờ đạo đức), chúng ta nhắm mắt để khai thác, bóc lột.  Khi, như người ta nói ở Trung Hoa, “Chẳng có gì khác nhau cho dù con mèo là trắng hay đen,” kết quả là hằng hà sa số mèo đen – người đạo đức phá sản – và đang tạo nên vô số vấn đề!

 

Thất bại với cái nhìn vào bức tranh tổng thể có nghĩa là hiện thực bị đánh mất.  Thái độ chỉ tiền bạc thôi là đầy đủ đưa đến những hậu quả không biết trước được.  Tiền bạc là cần thiết một cách chắc chắn; thí dụ, nếu quý vị nghĩ rằng chỉ cần những khóa thiền tập tôn giáo là đủ rồi, thì quý vị sẽ không có gì để mà ăn.  Nhiều nhân tố cần phải được quan tâm đến.  Với một sự tỉnh thức về một bức tranh trọn vẹn hơn, quan điểm của quý vị trở nên hợp lý hơn, và hành động của quý vị trở nên thực tiển hơn, và trong cách này những kết quả có triển vọngthể đạt đến được.

 

Trở ngại đứng đầu của những cảm xúc phiền não là chúng làm lu mờ thực tại.  Như Long Thọ nói:

 

Khi những cảm xúc phiền não và những hoạt động của chúng chấm dứt,

 thì có sự giải thoát.

 

Những cảm xúc phiền não sinh khởi từ những nhận thức sai lầm.  Những nhận thức sai lầm ở đây là những mô thức phóng đại của tư tưởng không phù hợp với những thực tế.  Ngay cả nếu một đối tượng – một sự kiện, một con người, hay bất cư một hiện tượng nào khác – có một khía cạnh thuận lợi nhỏ, một khi đối tượng được thấy một cách sai lầm như sự tồn tại hoàn toàn từ chính phía nó, chân chính và đúng thực, sự phóng chiếu tinh thần phóng đại tính chất của nó vượt xa những gì nó thật sự là, đưa đến kết quả trong tham dục.  Việc xãy ra cũng giống với sân hận và thù ghét; lần này, một nhân tố tiêu cực bị phóng đại, làm cho đối tượng dường như là một trăm phần trăm tiêu cực, kết quả là chìm sâu trong bối rối.  Mới gần đây, một nhà tâm lý trị liệu nói với tôi rằng khi chúng ta phát sinh sân hận, chín mươi phần trăm sự xấu xa của đối tượng về niềm giận dữ là qua sự phóng đại của chúng ta.  Điều này rất phù hợp với ý kiến của Đạo Phật về vấn đề những cảm xúc phiền não sinh khởi như thế nào.

 

Tại thời điểm khi sân hậntham dục được phát sinh, thực tại không được thấy; đúng hơn, là một sự phóng chiếu tinh thần giả tạo cực kỳ tệ hại hay cực kỳ tốt đẹp được thấy, gợi lên những hành động sai trái và không thực tếToàn bộ điều này có thể được tránh bằng việc thấy bức tranh toàn bộ được mở ra do việc chú ý đến tính duyên khởi của những hiện tượng, mối quan hệ của những nguyên nhânđiều kiện mà từ đấy chúng sinh khởi và từ đấy chúng tồn tại.

 

Nhìn vào bằng cách này, những bất lợi của cảm xúc phiền nãorõ ràng.  Nếu quý vị muốn có thể nhận thức hoàn cảnh thực sự, quý vị phải tự nguyện từ bỏ sự cam chịu đối những cảm xúc phiền não, vì trong mỗi một lĩnh vực, chúng làm lu mờ sự nhận thức về những sự kiệnThí dụ, bị thấy từ nhận thức của tham dục hay sân hận, sự kiện luôn luôn bị lu mờ.

 

Từ ái và bi mẫn cũng liên hệ những cảm giác mạnh mà có thể làm quý vị khóc với thấu cảm, nhưng chúng không bi xui khiến với phóng đại mà do nhận thức vững chắc về cảnh ngộ của chúng sinh, và sự thích đáng của việc chúng sinh quan tâm cho vấn đề cát tường của họ.  Những cảm giác này dựa trên tuệ giác nhìn sâu vào trong việc chúng sinh khổ đau như thế nào trong vòng lẫn quẩn của tái sinh gọi là “luân hồi”, và chiều sâu của những cảm giác này được thúc đẩy qua tuệ giác nhìn sâu vào trong tính vô thườngtính không , như chúng ta sẽ thảo luận ở chương 22 và 23.  Mặc dù tình thươnglòng trắc ẩn có thể bị tác động bởi những cảm xúc phiền não, nhưng tình thươnglòng trắc ẩn chân thật (tức là từ ái và bi mẫn) thì không bị thành kiến và không bi phóng đại, bởi vì chúng được hình thành trên nhận thức đúng đắn trong mối quan hệ của chúng ta với người khác.  Quan điểm duyên khởilợi lạc cao sâu nhất trong việc làm cho quý vị biết đánh giá đúng bức tranh rộng rãi hơn một cách xác thật.

 

SỰ LỆ THUỘC TRÊN NHỮNG BỘ PHẬN

 

Duyên khởi cũng liên hệ đến sự kiện rằng tất cả những hiện tượngvô thường hay thường – tồn tại trong sự lệ thuộc trên những bộ phận của chính nó.  Mỗi vật đều có những bộ phận.  Thí dụ, một cái bình tồn tại trong sự lệ thuộc trên những bộ phận của nó, cho dù chúng ta lưu tâm đến những bộ phận thô, như cái nắp đậy, cái tay cầm, hay khai triển ra những phần vi tế, như những phân tử của nó.  Không có những bộ phận thiết yếu của nó, một cách đơn giả cái bình không thể là cái bình; nó không thể tồn tại trong cách cụ thể, độc lập mà nó dường như thế.

 

Còn về những hạt nguyên tử là những thành phần xây dựng nên những đối tượng lớn hơn thì sao?  Chúng có thể khôngthành phần chứ?  Điều này cũng không thể, vì nếu một hạt bụi trần không có phạm vi không gian, thì nó không thể phối hợp với những hạt bụi trần khác để hình thành một đối tượng lớn hơn.  Những nhà vật lý lượng tử tin rằng ngay cả những phần tử nhỏ nhất cũng có thể chẻ ra thành những phần tử nhỏ hơn nếu chúng ta có thể tạo ra những dụng cụ có đủ khả năng để làm như thế, nhưng ngay cả nếu người ta tìm thấy một thực thể vật lý không thể chia chẻ, nó sẽ vẫn có phạm vi không gian và những phần tử như vậy,  bằng khác đi nó không thể phối hợp với những phần tử khác để hình thành bất cứ vật gì khác lớn hơn.

 

Thiền Tập Quán Chiếu

 

1-    Đem đến tâm thức một hiện tượng vô thường, chẳng hạn như một quyển sách.

2-    Quán sát sự hình thành sự biểu hiện của nó trong sự lệ thuộc trên những phần tử của nó – những trang sách và bìa sách.

3-    Hãy xem sự lệ thuộc của nó trên những thành phần của nó có mâu thuẩn với sự biểu hiện của nó giống như nó tồn tại trong tự bản chất của nó không.

 

THẨM TRA Ý THỨC

 

Ý thức liên hệ trong việc nhìn một cái lọ màu xanh dương là không có những bộ phận hiện hữu trong không gian, vì nó không phải là vật chất [trong cái thấy của con mắt hay nhãn thức], mà nó tồn tại như một sự liên tục của những thời khắc [của hình ảnh trong phim].  Ý thức nhìn vào cái lọ xanh có những thời khắc trước và sau đó trong sự tương tục của nó, và đây là những phần tử của dòng suối ý thức – không kể là nó ngắn như thế nào.

 

Rồi thì hãy lưu tâm thời khắc ngắn nhất trong một sự tương tục.  Nếu ngay cả thời khắc ngắn nhất không có một sự bắt đầu, đoạn giữa, và kết thúc, nó đã không thể phối hợp với những thời khắc ngắn khác để trở thành một sự tương tục; nó sẽ gần như bằng với thời khắc trước và đến thời khắc sau, trong trường hợp ấy sẽ hoàn toàn không có sự tương tục.

 

Như Long Thọ nói:

 

Giống như một thời khắc có sự kết thúc, vì thế nó phải có

Sự bắt đầu và đoạn giữa.

Cũng thế sự bắt đầu, đoạn giữa, và kết thúc

Được phân tích như một thời khắc

 

Thiền tập quán chiếu

 

1-    Lưu tâm ý thức chú ý đến một cái lọ xanh dương.

2-    Quán chiếu trên việc nó hình thành sự hiện hữu trong sự lệ thuộc trên những phần tử của nó – một vài thời khắc đã cấu thành sự tương tục của nó.

3-    Hãy thấy sự lệ thuộc của nó trên những phần của nó có mâu thuẩn với hiện tướng của nó giống như nó tồn tại trong tự bản chất của nó hay không.

 

THẨM TRA KHÔNG GIAN

 

Ngay cả không gian cũng có những bộ phận, chẳng hạn như khoảng không phối hợp với những phương hướng đặc thù, chẳng hạn như không gian của phương Đông và không gian của phương Tây, của những đối tượng đặc thù.

 

Thiền tập quán chiếu

 

1-    Lưu tâm không gian chung chung.

2-    Quán chiếu trên sự hình thành sự hiện hữu trong sự lệ thuộc trên những bộ phận của nó – Đông, Tây, Nam, và Bắc.

3-    Hãy xem sự lệ thuộc trên những bộ phận của nó có mâu thuẩn với sự hiện diện của nó giống như sự tồn tại trong tự bản chất của nó hay không.

 

Cũng thế:

 

1-    Lưu tâm đến không gian của một cái tách.

2-    Quán chiếu trên sự hình thành sự hiện hữu trong sự lệ thuộc trên những phần tử của nó – phẩn nửa trên và phần nửa dưới của cái tách.

3-    Hãy xem sự lệ thuộc trên những phần tư của nó có mâu thuẩn với sự hiện diện của nó giống như nó tồn tại trong tự bản chất của nó hay không.

 

Trích từ quyển How to See Yourself as You Really Are của Đức Đạt Lai Lạt Ma 
Tuệ Uyển chuyển ngữ

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 595)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 780)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1100)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1268)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 997)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1341)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 791)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 763)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 808)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 823)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 802)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 790)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 948)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 834)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 988)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 1007)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 929)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 932)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 858)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 1015)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 956)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 897)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 995)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 910)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 850)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 958)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 885)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1143)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 915)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 1017)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1156)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1617)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1165)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1261)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1113)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 978)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 919)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 960)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 806)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1486)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1366)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1330)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1274)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1379)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1334)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1478)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1355)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1208)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1267)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1326)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant