Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Vực Thẳm (song ngữ)

03 Tháng Bảy 201514:52(Xem: 16594)
Vực Thẳm (song ngữ)
VỰC THẲM 

Gil Fronsdal - Chuyển Ngữ: Nguyễn Văn Tiến

Vực Thẳm (song ngữ)

Vực Thẳm

Nhà sư lãnh đạo các công việc của tu viện, đã kể câu chuyện nầy như sau:

Tôi giống như đang đứng ở khúc cuối của con đường cùng, sau hai mươi sống trong tu viện. Tôi đã cống hiến bản thân mình, siêng năng tu tập, cùng tuân thủ theo giới luật của tu viện. Nhờ tôi trải qua nhiều nỗ lực thực hành, nên những nguồn năng lượng trong tâm tôi như sự tập trung, sự tỉnh thức, và lòng từ bi, đã trở nên rất mạnh mẽ, nhiều đến nỗi vị sư trụ trì chưa bao giờ trông thấy ai như thế, trước kia. Mọi người đều cảm thấy sự an lạc, cùng với sự thanh thản, khi họ tiếp xúc với tôi. Tôi chỉ còn rất ít sự dính mắc, mà người khác trông thấy được.

Tuy nhiên, tôi vẫn chưa giác ngộ. Ở tu viện nầy, có những nhà sư khác đến tu hành sau tôi, và họ cũng đã thực hành ít kỹ lưỡng hơn tôi, nhưng họ đã đạt được những cấp độ khác nhau của sự giác ngộ. Mọi người đều cho rằng trường hợp của tôi là kỳ lạ nhất.

Rồi một ngày kia, vị sư trụ trì kéo tôi ra bên cạnh ông, rồi ông nói chuyện với tôi thật lâu. Chúng tôi bàn luận về lý do tôi đã không có sự tiến bộ, lý do con người tôi như bị ai kéo ghì lại, bởi vì tôi đã sợ hãi để buông xả hoàn toàn. Mặc dù tôi tin tưởng rằng tôi đã đặt niềm tin vào đời sống tinh thần, nhưng tận trong trái tim tôi là một sự hoài nghi không-rõ-ràng, nhưng dai dẳng. Từ hồi còn bé đến giờ, một phần của tâm trí tôi như đứng trên ngọn đồi cao, nhìn xuống đợi chờ một thảm kịch kinh hãi, đe dọa đến gần. Vào phút cuối của buổi nói chuyện, nhà sư trụ trì bảo tôi rằng ông đã nghĩ ra một cách duy nhất, để thắp lửa vào ngọn đèn giác ngộ của tôi. Khi ông cho tôi cơ hội nầy, mắt tôi đầy lệ vì vui mừng ... nhưng rồi ông bảo tôi, điều nầy có nghĩa là tôi phải bước xuống căn phòng dưới tầng hầm, có tên là "Vực Thẳm".

Đã qua rất nhiều thế hệ, không có một ai bước vào căn phòng nầy. Chỉ có những nhà sư trụ trì là biết được các điều bí mật xảy ra bên trong căn phòng. Và, không còn một ai khác. Cánh cửa mầu đỏ của căn phòng luôn khóa chặt, nhưng chắn chắn, đây là một điều không cần thiết. Một bầu không khí kinh hãi, phát ra từ phía bên trong, làm các nhà sư lo sợ khi họ phải đi ngang qua, gần cánh cửa phòng.

Trong lúc chúng tôi đi bộ xuống tầng hầm, vị sư trụ trì giải thích cho tôi biết rằng, đây là cơ hội cuối cùng, và duy nhất của tôi vào căn phòng nầy. Một khi tôi bước vào căn phòng, tôi sẽ không có đường quay trở lại. Đứng trước cửa phòng, tôi có cảm giác buồn vui lẫn lộn trước khi bước vào. Vị sư trụ trì cẩn thận giải thích những lời hướng dẫn, mà vị thầy của ông đã truyền lại cho ông. Lời hướng dẫn của ông, tôi nhớ như sau: "Tôi sẽ phải bước vào phòng. Nhà sư trụ trì sẽ đóng ập cửa, rồi cánh cửa sau lưng tôi được khóa lại, và trong mọi trường hợp ông không được mở cửa ra nữa. Khi tôi vào phòng rồi, tôi đơn giản chỉ cần đi bộ đến phía bên kia của căn phòng, rồi bước ra ngoài bằng cánh cửa bên đó. Chuyện nầy nghe có vẻ khá dễ dàng".

Sau đó, đột nhiên, nhà sư trụ trì mở cửa, rồi ông đẩy tôi ngay vào phòng. Trước khi tôi kịp bình tĩnh lại, tôi nghe thấy tiếng khóa cửa sau lưng tôi.

Căn phòng nầy thật sự rất lớn, có lẽ chiều rộng khoảng 30 mét (tương đương với 100 feet). Ở mặt bên kia của căn phòng là cánh cửa, giống y hệt như cánh cửa tôi vừa bước vào.

Căn phòng không có sàn nhà. Tôi đang đứng trên chỗ-nhô-ra-của-mỏm-núi-đá, chiều ngang 60 xăng-ti-mét (tương đương với 2 foot), và có chiều dài bằng cánh cửa. Ngay chính giữa tôi và cánh cửa bên kia là một vực thẳm. Vực thẳm mà tôi chẳng nhìn thấy đáy. Từ đáy vực sâu, đưa lên âm thanh ken két như tiếng ghiền đá, cùng với âm thanh vỡ nứt. Thỉnh thoảng, một quả cầu lửa bắn lên trên.

Tôi đã sợ hãibối rối. Tôi cần phải làm gì đây, làm sao tôi có thể đi qua phía bên kia được? Tôi đã dành trọn ngày đầu tiên đứng trên chỗ-nhô-ra-của-mỏm-núi-đá để học hỏi về căn phòng, vì tôi tưởng rằng tôi sẽ tìm ra được cách bí mật để đi qua phía bên kia. Tôi đã dành trọn ngày thứ hai đập mạnh vào cánh cửa, để hy vọng rằng ai đó sẽ mở cửa cho tôi ra ngoài. Tôi đã khóc gần như trọn ngày thứ ba, rồi trong khi ngồi trên chỗ-nhô-ra-của-mỏm-núi-đá, một chiếc dép đã rơi ra khỏi chân tôi. Khi chiếc dép rơi xuống vực, những âm thanh ken két như tiếng ghiền đá, vang vọng lên còn nhiều hơn trước.

Vào ngày thứ tư, sau nhiều lần tôi suy nghĩ về lời hướng dẫn, tôi cảm thấy tuyệt vọng. Lời hướng dẫn thật đơn giản: Hãy đi bộ đến bên kia của căn phòng, rồi bước ra bằng cánh cửa bên đó. Tôi có thể tin tưởng vào Nhà Sư Trụ Trì không?

Mệt mỏi và đói bụng, vào ngày thứ năm tôi đã chẳng còn chút hy vọng nào nữa. Tôi tự thuyết phục tôi rằng, tôi không còn sự lựa chọn nào khác, ngoài việc cố gắng đi đúng theo lời hướng dẫn, tôi quyết định bước chân ra ngoài chỗ-nhô-ra-của-mỏm-núi-đá. Tôi cố gắng không tưởng tượng, những điều gì đang chờ đợi tôi dưới vực sâu. Vì quá hãi sợ, nên tôi nhìn thẳng về phía trước, và đưa chân đi một bước về phía bên kia phòng, chân tôi đang bước vào nơi-tôi-không-biết. Khi tôi đặt chân xuống, chỗ-nhô-ra-của-mỏm-núi-đá tự kéo dài ra về phía trước, nên giúp cho chân tôi đứng vững vàng.

Phải mất thêm một ngày nữa, tôi mới dám bước chân thêm bước thứ nhì, và cuối cùng khi tôi quyết định đi tiếp, chỗ-nhô-ra-của-mỏm-núi-đá một lần nữa tự kéo dài ra phía trước, để nhận lấy chân tôi. Tôi tiếp tục bước đi vào chỗ-hư-không (còn gọi là tánh-không, dưới cái nhìn Phật Giáo), và theo cùng với mỗi bước chân tôi đi, chỗ-nhô-ra-của-mỏm-núi-đá kéo dài thêm ra. Và cứ như thế, chẳng mấy chốc, tôi đã đến phía bên kia phòng.

Kể từ ngày hôm ấy, tự tôi buông xả, rồi tôi bước chân vào nơi tự do của sự giác ngộ, thật dễ dàng.

 

The Abyss 

The work leader of the monastery told this story:

I had reached an impasse after twenty-five years in the monastery.  I had devoted myself diligently to monastic practice.  Through much effort my powers of concentration, mindfulness, and compassion were among the strongest the Abbot had ever seen. I was known for my peace and equanimity. I had few obvious attachments.

However, I had not yet attained realization.  Other monks, with less time in the monastery and less thorough practice had reached various levels of awakening. Everyone thought my circumstance was most strange.

Then one day the Abbot took me aside for a long talk. We discussed how I was held back by my fear of completely letting go. As much as I trusted the spiritual life, at my core was some deep, unarticulated nagging mistrust. As long as I could remember, a part of me was on the lookout for impending tragedy.  At the end of the conversation the Abbot told me he could think of only one more catalyst for my enlightenment. Just the possibility brought me tears of joy … until he told me it meant entering a basement room called “the Abyss.”

No one in many generations had entered this room. Only the abbot was entrusted with the secret knowledge of what was inside. No one else knew.  While the red door to the room was kept locked, it didn’t need to be.  An atmosphere of terror emanated from within and the monks were afraid to walk anywhere close to the door.

Walking down to the basement the Abbot explained that my one and last opportunity was inside this room.  Once I entered this room, there would be no turning back.  Standing in front of the door I had mixed feelings about entering.  The abbot carefully explained the instructions that had been transmitted to him. I was to step into the room.  The abbot was to close and lock the door behind me and under no circumstance was he to unlock it again. On entering the room I was simply to walk to the other side of the room and exit through the door there. It sounded easy enough.

Suddenly, the abbot opened the door and pushed me inside. Before I could get my bearings, I heard the door lock behind me.

The room proved to be huge, perhaps 100 feet wide. On the other side of the room was a door just like the one I had entered.

The room had no floor.  I was standing on a two foot ledge as wide as the door. Between me and the other door was a gaping abyss. I could not see the bottom.  From the depths came horrible grinding and cracking sounds.  Occasionally a ball of flame shot upward.

I was scared and perplexed.  How was I supposed to walk across?  I spent the first day standing on the ledge studying the room, certain that I was meant to discover some secret way to get across.  I spent the second day banging on the door hoping that someone would let me out.  I cried most of the third day until, while sitting on the ledge, one of my slippers fell off my foot. As it fell the grinding noises seemed to get worse.

On the fourth day I desperately and repeatedly reviewed the instructions.  They were so simple: Walk across the room and out the other door. Could I trust the Abbot?

Tired and hungry, on the fifth day I gave up all hope.  Convinced I had no other choice but to try the instructions, I decided to walk out off the ledge.  I tried not to imagine what awaited me down in the depths. Terrified, I looked straight ahead and took a step into the room, into the unknown.  As my foot came down, the ledge stretched forward, receiving me with a firm, stable base.

It took me another day to take the second step, but when I finally did, the ledge again extended itself outwards to receive my foot.  I continued walking into the emptiness and with each step the ledge became longer. Soon enough I had reached the opposite side.

From that day on, letting go into the freedom of realization has come easily.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12831)
nhân quả của một người hay cộng nghiệp của một quốc gia không phải tự nhiên mà có, mọi việc đều do chúng ta tạo tác mà kết thành quả báo.
(Xem: 10908)
Chúng ta phải học biết cách sống trong hiện tại để có thể cảm nhận, tận hưởng được niềm vui và hạnh phúc trong cuộc sống này.
(Xem: 10011)
‎Cái gì có nương tựa, cái ấy có dao động. Cái gì không nương tựa, cái ấy không dao động. Không có dao động thì có khinh an.
(Xem: 10322)
Đạo Phật không chấp nhận quan điểm cố định, cái gì cũng đổ thừa cho số mệnh để rồi cuối cùng, cuộc sống giống như bèo dạt mây trôi.
(Xem: 11227)
Cho đến nay Tâm vẫn là một khái niệm trừu tượng. Có tâm hay không? Nếu có, tâm nằm ở đâu trong mỗi con người?
(Xem: 9956)
Trong cuộc sống hằng ngày, ta thường bám níu vào giây phút hiện tại bất cứ lúc nào tưởng như giây phút hiện tại là cố định và không bao giờ biến mất.
(Xem: 10207)
Tu hành quan trọng là phải thấy được cốt lõi trọng yếu và giữ ở mức trung đạo, không để nghiêng lệch qua bất cứ bên nào.
(Xem: 9651)
Theo tuệ giác Thế Tôn, nếu hai người tu tập như nhau cùng giữ giới đức và có trí tuệ hiểu biết ngang nhau, nhưng về ...
(Xem: 10032)
Là người Phật tử, con của Đấng Giác Ngộ, chúng ta phải có đức tin chơn chánh, được đặt nền tảng trên sự hiểu biết đúng đắnsáng suốt.
(Xem: 8792)
Người cúng dường thì được phước báo không nghèo khổ, người tùy hỷ thì được phước báu không ganh tị tật đố, bởi vì...
(Xem: 8529)
Bố thí là nền tảng cơ bản để kết nối yêu thương, sẻ chia cuộc sống nhằm làm vơi bớt nỗi đau bất hạnh của...
(Xem: 10065)
Trong cuộc sống của chúng ta từ người có quyền hạn cao nhất cho đến thứ dân bần cùng, mỗi người đều có một trách nhiệm riêng gắn liền với ...
(Xem: 10019)
Gieo trồng công đức nơi Tam bảo là “ba căn lành chẳng thể cùng tận, đến được Niết-bàn”.
(Xem: 9436)
Làm chủ căn tai là biết chọn lọc, biết lựa chọn, biết nghe những điều hay lẽ phải, biết “bỏ ngoài tai” những lời gian dối, dua nịnh...
(Xem: 10579)
Đời là khổ và con người vì “chấp ngã” tự ràng buộc mình, nên Đức Phật mới chỉ ra con đường giải thoát.
(Xem: 9124)
Người biết gieo trồng phước đức trước tiên là họ sống an vui hạnh phúcthoải mái đầy đủ cả hai mặt vật chất lẫn tinh thần, họ sẽ là người giàu có trong hiện tạimai sau.
(Xem: 10507)
Phước đức không do thần linh, trời đất ban cho, mà do ông bà, cha mẹ mình tạo ra trong quá khứ và do chính mình tạo ra trong hiện tại.
(Xem: 11296)
Ở đời, chúng ta thường quên đi những gì chúng ta đã có và đang có, con người thật là mâu thuẫn, chỉ biết tìm kiếm thêm mà không biết quan tâm đến người khác.
(Xem: 8507)
Điều làm nên sự vĩ đại khởi đầu bằng tình thương, diễn tiến trong tình thương, và nếu có chăng một kết thúc thì cũng kết thúc trong tình thương.
(Xem: 12625)
Tâm giác ngộ là lẽ thật thiết yếu, phổ quát. Tư tưởng thuần khiết nhất này là nguyện ước và ý chí đưa tất cả chúng sanh đến
(Xem: 10154)
Khi chúng ta không lo âu, sợ hãi v.v… thì bình an xuất hiện. Tuy cùng gói gọn trong chữ bình an nhưng trạng thái bình an ở mỗi người không như nhau.
(Xem: 8451)
Cách thời Phật hiện tiền khoảng một trăm năm có vua A-dục, do có tài nên ông ta bình thiên hạ dễ dàng nhưng ...
(Xem: 9671)
Phật pháp có nhiều cách để tu tậphành trì. Hôm nay, chúng ta rút ra bốn điều căn bản để mỗi người tự chiêm nghiệm và quán xét,
(Xem: 9514)
Không phải độc nhất chỉ có Thiền mới ngộ. Tất cả chúng ta đều nhiều lúc bừng ngộ chút ít trong những lần trí tuệ bản thân mình bất chợt kinh ngạc...
(Xem: 8127)
Đức Phật dạy rằng, mỗi người chúng ta có sáu căn, tức là sáu bộ phận cảm nhận, thấy nghe, hay biết là (mắt-tai-mũi-lưỡi-thân-ý).
(Xem: 9984)
Chúng ta sinh ra trong cõi Dục nên nghiệp tham áibản chất của con người.
(Xem: 9242)
Tôi không biết là mình đã bắt đầu đọc sách của Thầy Nhất Hạnh lúc nào, nhưng sớm nhất có thể là vào năm 1964 khi tôi mới vào chùa.
(Xem: 13364)
Xin nguyện cầu hồng ân Chư Phật phóng quang tiếp độ hương linh Bác Diệu Nhụy sớm vãng sanh về miền Cực Lạc.
(Xem: 9560)
Đức Phật dạy chúng ta phải nhìn vào thân, quán chiếu về thân và thấu hiểu được bản chất của nó.
(Xem: 8677)
Người xưa do kinh nghiệm một đời, đã từng học hỏi cổ nhân qua sách vỡ và thực tiển, nên các ngài lúc nào cũng
(Xem: 10338)
Hãy tu tập tâm từ với chính bản thân mình trước, với tâm nguyện sau này chia sẻ tâm từ đó với người khác.
(Xem: 8655)
Thiền tập giúp chúng ta thanh lọc các phiền muộn khổ đau do ham muốn quá đáng như tham lam, sân hậnsi mê, ganh ghét tật đố, ích kỷ, bỏn sẻn…..
(Xem: 8618)
Thân này vốn dĩ tạm bợ, thân chỉ là phần phụ vì tâm đoan chánh, ngay thẳng mới quyết định nghiệp tốt hay nghiệp xấu.
(Xem: 14217)
Chánh tinh tấn là chi thứ 6 trong Bát Chánh Đạo, có nghĩa là tinh tấn, nỗ lực, cố gắng đúng theo chánh pháp;
(Xem: 10217)
Cuộc sống với biết bao thăng trầm được mất, nên hư, thành bại, người ý thức được nguyên lý nhân-duyên-quả là điều hiếm có.
(Xem: 8615)
Sống trong pháp giới Hoa Nghiêm là sống trong “tánh khởi” hay trong Nhất Tâm của tất cả chúng sanhthế giới.
(Xem: 11500)
Thế gian này không phải ai cũng sẵn sàng cho đi, chỉ có những người đã ý thức được đạo lý nhân quả và...
(Xem: 11867)
Trên thế gian có người vật chất đầy đủ, nhưng họ luôn lấy công việc làm vui, lòng họ luôn vui vẻ rộng mở tấm lòng để giúp đỡ người khác.
(Xem: 8803)
Quan sát cuộc sống, chúng ta dễ dàng thấy đời người mong manh, nay còn mai mất, vô thường nhanh chóng chẳng chừa ai.
(Xem: 8134)
Tài sản do mồ hôi và công khó làm ra, vì thế người con Phật phải hết sức trân quý, chi tiêu đúng mực, đúng chỗ để làm lợi ích cho mình và cho người.
(Xem: 9437)
Trẫm có điều thắc mắc. Chúng sanh trong thế gian này có nhiều loài, nhiều loại; như đàn ông, đàn bà, bàng sanh...
(Xem: 10415)
Giá trị một con người xuất phát từ nội tâm chứ không phải những thứ bề ngoài, lao tâm khổ sở vì nó thật là điều bất hạnh nhất trên đời.
(Xem: 8765)
Đạo Phậttư tưởng xuất thế gian nhưng lại có chủ trương đi vào cuộc đời, để sẵn sàng chia vui sớt khổ cùng với tất cả muôn loài.
(Xem: 8862)
Nhờ hiểu được lý nhân duyên, con người dễ dàng thông cảm, khoan dung, tha thứ, do đó mà bớt chấp ngã, thấy ai cũng là người thân...
(Xem: 16146)
Sống Với Năm Nhân Tính Căn Bản - Live With Five Basic Principles of Human Nature, Tỳ Kheo Thích Minh Điền Soạn Viết, Thánh Tri dịch Việt sang Anh
(Xem: 9955)
hương pháp công hiệu nhất để tịnh hóa nghiệp phiền nãothực hành thanh tịnh nghiệp chướng bằng minh chú Kim Cang Tát Đỏa.
(Xem: 11443)
Đức Phật hơn 25 thế kỷ trước là bậc Giác Ngộ, Trí Tuệ đã ý thức được lợi ích của cây xanh cực kỳ quan trọng với sự sống của con người nói riêng và muôn loài nói chung.
(Xem: 10193)
Chánh pháp như ngọn đèn sáng xua tan bóng tối phiền não. Phiền não của chúng sinh thì nhiều vô lượng vô biên,
(Xem: 8360)
Đạo Phật đã hướng dẫn cho chúng ta thấu hiểu lý nhân quả để mỗi người sống có trách nhiệm hơn về...
(Xem: 9340)
Theo Phật giáo, con người là hợp thể năm uẩn, gồm sắc (thân) và thọ, tưởng, hành, thức (tâm). Khi một người chết đi, phần quan trọng nhất là tâm thức thì theo nghiệp tái sinh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant