Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phật Học Và Nghệ Thuật: Từ Thiền Tông Tới Tịnh Độ

03 Tháng Tám 201515:35(Xem: 13074)
Phật Học Và Nghệ Thuật: Từ Thiền Tông Tới Tịnh Độ

PHẬT HỌC và NGHỆ THUẬT:
TỪ THIỀN TÔNG TỚI TỊNH ĐỘ

Nguyên Giác

 
Phật Học Và Nghệ Thuật Từ Thiền Tông Tới Tịnh Độ

Bài này để nói thêm về tương quan giữa Phật học và nghệ thuật – các bộ môn như âm nhạc, thi ca, hội hoạ, tiểu thuyết, kịch, phim …

Một số bạn thắc mắc rằng tại sao Đức Phật bảo phải tránh xa âm nhạc, trong khi nhiều Thầy hiện nay vẫn sử dụng âm nhạc, hay soạn kịch, hay làm phim…

HT Thích Trí Thủ viết trong Bát Quan Trai Giới, rằng trong những ngày thọ Bát Quan Trai Giới, giới tử phải đọc và thọ trì câu: “Như chư Phật suốt đời không ca múa xướng hát và không đi xem nghe, chúng con... xin một ngày một đêm không ca múa xướng hát và không đi xem nghe.” (1)

Đúng là có như thế. Nơi đây, tôi chỉ có thể nói ý riêng, không có thẩm quyền gì hết: Đức Phật chỉ muốn chúng ta xa lìa tham sân si. Nếu có bất kỳ pháp nào trong trần gian, không riêng âm nhạc, có thể làm tâm chúng ta khởi lên tham sân si, Đức Phật đều dặn phải tránh xa. Nhưng nếu tất cả các hình thức nghệ thuật nào có thể làm chúng ta tránh bớt, hay dứt bỏ được tham sân si, hẳn là Đức Phật sẽ cho sử dụng.

Như mới vài tháng trước, có một cuộc tranh luận về vấn đề âm nhạc, khi một trưởng lão hòa thượng nghe một ca khúc được Phật tử hát cúng dường. Trong phần góp ý, tôi đã bênh vực vị hòa thượng và người hát cúng dường, trích như sau:

“…Tôi xin góp ý tự tâm mình, một người hoạt động trong giới văn nghệ sĩ nhiều thập niên. Tôi nghĩ rằng, Đức Phật chế giới là giúp chúng ta phòng hộ 6 căn. Đức Phật không dị ứng gì với đàn guitar hay đàn piano, không dị ứng với nhạc quan họ hay nhạc rock, và ngài cốt tủy là khuyên chúng ta nên nghe nhạc như một pháp bình thường trong thế gian. Thậm chí, khi chư Thiên hát bản tình ca, ngài cũng hoan hỷ vì ngài luôn luôn ở trong đại định (và ngài muốn chúng ta như thế, bước đầu là khuyên chớ nghe hay bớt nghe nhạc). Và toàn bộ giới luật là phòng hộ 6 căn, chứ không riêng phòng hộ lỗ tai. Bởi vì:

Tai: ưa nhạc du dương, ưa ca ngâm, ưa nịnh hót, ghét lời nói thẳng...

Mắt: ưa màu sắc rực rõ, áo đẹp, nhan sắc, tranh đẹp, thư pháp đẹp... (Nếu tôi điêu khắc tượng Phật gỗ xù xì thô nhám là bị quý Thầy rầy liền, vì chúng sinh ưa nhìn tượng đẹp).

Mũi: ưa mùi thơm, hương trầm... (Bởi vậy, cúng nhang trầm không thơm là sẽ có quý Thầy buồn, nói là tâm không nghiêm trang, thiếu cẩn trọng).

Lưỡi: ưa ăn ngon... (Hãy hình dung, bà bếp trong chùa mà nấu ăn dở là được mời về nhà liền).

Thân: ưa nằm giường đệm... (Bây giờ không thấy giường tre, giường gỗ tạp).

Ý: ưa bài thơ hay, ưa bài luận thuyết giỏi, ưa lý luận phức tạp... (Làm thơ dở, bảo đảm là bị chúng sinh quở liền).

Nếu cấm âm nhạc, xin hãy yêu cầu các chùa phải nấu ăn dở, hãy yêu cầu tượng Phật phải xù xì gỗ tạp, hãy yêu cầu tranh và thư pháp phải xấu, hãy yêu cầu thơ phải dở, và vân vân...

Như vậy, cốt tủy chỉ có nghĩa là như Kinh Kim Cang nói: không trụ tâm vào đâu hết, dù là có âm nhạc hay không (vô sở trụ).

Bởi vì, tâm dính (trụ) vào tịch lặng cũng nguy hiểm nhiều y hệt như mê vào âm nhạc.

Tại sao mắt chỉ ưa nhìn tượng Phật đẹp, mà tai dị ứng với ca khúc cúng dường Tam Bảo...” (2)

Xin ghi thêm, bài viết "Âm Nhạc Trong Kinh Phật" đã đề nghị một giải thích như sau:

"...chúng ta có thể tin rằng, với tâm hồn nhạy cảmtrí tuệ vi diệu, Đức Phật không thực sự cứng nhắc xem âm nhạc như một trở ngại, mà có khi còn là một phương tiện hoẳng pháp. Vì nói cho cùng, khi đọc Kinh Phật, chúng ta nhiều chỗ thấy nhạc trời được trình tấu để cúng dường, để tán thán công đức... Khi Đức Phật nhập Niết Bàn, chư Thiên đã tới tụ hội, tấu nhạc, hương hoa cúng dường. Nếu Đức Phật xem âm nhạctrở lực, tất nhiên các kinh sẽ không muốn ghi lại các chi tiết đó." (3)

Nhiều thập niên trước, tôi đã hỏi thầy bổn sư về những khó khăn giữ giới trong đời, Thầy Tịch Chiếu nói, và tôi tin chắc thật vào lời Thầy dạy: “Thấy Tánh rồi làm gì cũng đúng, chưa Thấy Tánh làm gì cũng sai.” (4)

*

Có những cơ duyên hình thành có vẻ như tiền định, thí dụ như một tác phẩm nghệ thuật – như nhạc, thơ, truyện, kịch, phim… Nhà Phật cũng nói, các pháp do duyên mà thành, không tự nhiên được. Suy diễn rộng ra, một bài thơ, một ca khúc, một tiểu thuyết, một cuốn phim…   khi được hình thành để cúng dường Tam Bảo, cũng là từ vô lượng phước đức hộ trì chánh pháp.

Hãy nhìn quanh chúng ta sẽ thấy, có rất nhiều người trong thời Internet vẫn chưa tin Phật, chưa đọc Kinh Phật, chưa thọ ngũ giới… huống gì là có lòng tin thâm sâu, muốn sáng tác một tác phẩm nghệ thuật để cúng dường chư Phật. Do vậy, làm Phật tử là cơ duyên nghìn kiếp, huống gì được làm thơ, viết nhạc cúng Phật.  Tại sao chư Thiên trong Kinh đã hát cúng Phật, chúng ta thời này lại không có quyền soạn nhạc cúng Phật? Phải chăng vì tâm của chư Thiên lúc đó khác với tâm chúng ta hiện nay? Có lẽ.

Nhưng, nếu khôngphương tiện nghệ thuật, hẳn là Phật pháp khó phổ biến hơn.

Hãy hình dung, truyện Quan Âm Thị Kính… từ truyện thơ chữ Nôm đầu thế kỷ 19, trở thành chèo cổ, cải lương, kịch… và tư tưởng Phật giáo được chở vào lòng người một cách tự nhiên.

Cần ghi nhận rằng khi các cựu tướng lãnh nhà Tây Sơn thất trận, nhiều người đã vào chùa ẩn thântu học. Trong đó nổi tiếng nhất là Hải Lượng Thiền Sư Ngô Thì Nhậm (còn gọi là Ngô Thời Nhiệm), người được Vua Quang Trung gọi là, “Thật là trời để giành ông cho ta vậy.” Khi giữ chức Thượng thư bộ Lại đã hiến kế giúp Vua Quang Trung lui quân về giữ phòng tuyến Tam Điệp - Biện Sơn (Ninh Bình) trước khi đại binh Tây Sơn chia làm 5 đạo binh Bắc tiến, xuất trận Tết Kỷ Dậu (1789) đánh tan 30 vạn quân nhà Thanh đang giúp Lê Chiêu Thống. Vài năm sau khi Vua Quang Trung băng hà, Ngô Thì Nhậm không được triều đình Quang Toản tin dùng nữa, nên lui về  tu học, soạn bộ Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh, được tôn là đệ tứ tổ của Thiền phái Trúc Lâm. Khi Gia Long tiêu diệt nhà Tây Sơn, Ngô Thì Nhậm bị bạn cũ là Đặng Trần Thường đang làm quan cho Gia Long đưa ra Văn Miếu đánh roi, khi về nhà, Nhậm chết vì roi tẩm thuốc độc. Ngô Thì Nhậm, trước khi chết, viết 4 câu thơ để gửi Đặng Trần Thường, tiên tri rằng Thường sẽ bị chết thảm. Quả nhiên, Thường bị Vua Gia Long trở mặt, giết năm 1813.

Hay như trường hợp Hứa Sử Truyện. Truyện thơ chữ Nôm này xuất hiện đầu thế kỷ 18, cũng cho chúng ta nhìn về một hình ảnh thời khai hoang Miền Nam: khi các cựu tướng lãnh Tây Sơn bị Gia Long truy nã, đã trốn về phương Nam. Trong đó, có Hòa thượng Toàn Nhật, một trong những thiền sư góp sức soạn ra cuốn tiểu thuyết chữ Nôm có tên là Hứa Sử Truyện.

Tác phẩm này hé lộ cho thấy phương pháp dạy Phật pháp của các nhà sư thế kỷ 18, khi đi từ Miền Bắc và Trung về phía Nam đã dạy Thiền Tông qua cách niệm Phật hay không…

Nếu chúng ta nhìn về tác phẩm Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh và nhiều thi tập của Hải Lượng Thiền Sư Ngô Thì Nhậm, sẽ thấy những tác phẩm này không viết cho quần chúng đọc, thậm chí, ngay trong giới trí thức cũng thấy khó nắm tông chỉ Thiền, tuy là cuốn này cũng dựa vào Kinh Viên Giác để nêu tông chỉ Thấy Tánh.

Câu hỏi là, các nhà sư Nam Bộ thời đầu thế kỷ 18 đã truyền dạy Phật pháp thế nào, đối với những người dân quê không biết chữ, hay chỉ biết chữ tương đối để đọc qua loa? Cách đơn giản: gói Phật học vào tiểu thuyết, nơi đây là truyện thơ Hứa Sử Truyện, kể chuyện một nhà sư bị bắt nhầm xuống địa ngục, rồi Diêm Vương khi biết bắt nhầm đã dạy Phật pháp cho sư này, và rồi truyện càng lúc càng gay cấn,vân vân.

Một bản diễn Nôm và chú giải Hứa Sử Truyện do Giáo sư Nguyễn Văn Sâm -- thành viên Ban Biên Tập Tự Điển Chữ Nôm Trích Dẫn, và là Trưởng ban Văn chương tại Viện Việt Học -- thực hiện rất mực công phu và Lời Tựa Đề cực kỳ tuyệt vời của Giáo Sư Trần Ngọc Ninh, nguyên Viện Trưởng Viện Việt-Học (3/2003-2/2008)… dự kiến sẽ được Viện Việt Học xuất bản trong một hay hai tháng tới. Tác phẩm này hé lộ cho thấy cách dạy Phật pháp tại Nam Bộ thế kỷ 18 qua văn chương, qua nghệ thuật thơ, nghệ thuật kể truyện.

Như thế, chúng ta thấy: qua nhiều thời kỳ, trong rất nhiều trình độ khác nhau, Phật học được gói vào tác phẩm nghệ thuật – nghĩa là, nhạc, thơ, truyện, kịch, và bây giờ là phim.

*

Tới đây, chúng ta thử nhìn về quan hệ thơ và nhạc.

Có nhiều nhà thơ rất tuyệt vời, nhưng chúng ta đôi khi không nhớ nổi vài câu thơ của một số nhà thơ xuất sắc đó. Và rất thường, khi được phổ nhạc, nhiều câu thơ mới được nhắc tới.

Thí dụ, khi tôi (một người có trí nhớ trung bình) thử nhớ xem thi sĩ Phạm Thiên Thư có những câu thơ tiêu biểu nào, tôi không thể nhớ ngay nổi. Nghĩ một chặp, thì nhớ ra, "Em tan trường về – Đường mưa nho nhỏ…" Như thế, lại là nhờ tới nhạc Phạm Duy. Đó là trường hợp của một thi sĩ đã tới một đỉnh cao riêng như Phạm Thiên Thư, huống gì là các nhà thơ trung bình như tôi.

Do vậy, cơ duyên được nhạc sĩ Trần Chí Phúc phổ thơ, tôi tự xem là do hộ pháp hướng dẫn, muốn mình đem Phật pháp ra gói vào một hình  thức dễ nhớ. Tôi quen với Phúc từ 22 năm nay. Phúc ở San Jose, chỉ mới về Quận Cam một năm nay. Thường ngày niệm Đức Quan Âm, nhạc sĩ Trần Chí Phúc đã hỗ trợ nhiều cho quý Thầy và các  chùa Bắc California, và bây giờ là Nam California. Dự kiến sẽ mở lớp dạy đàn guitar và dạy sáng tác nhạc, đời sống gian nan nhưng tấm lòng cực kỳ thơ mộng, Trần Chí Phúc hễ nghe chuyện nhà chùa cần là không từ nan.

Một điểm tôi quý trọng nhạc sĩ Trần Chí Phúc là khi đi lại trên chốn giang hồ, gặp nhiều nghịch cảnh, kể cả những hoàn cảnh trên nguyên tắc là dẫn tới bút chiến -- trong đó, có một chuyện xảy ra trong giới nghệ sĩ, tôi lại bị đẩy vào cuộc và rồi chứng kiến phản ứng đơn giản của Phúc: niệm Phật, rồi im lặng bỏ qua.

Tôi đã vẽ một tấm tranh nhỏ, mực và màu nước trên giấy watercolor, khổ 9X12 inches để bày tỏ lòng khâm phục nhạc sĩ Trần Chí Phúc: khi những mũi tên tham sân si bắn tới, hãy ném lên những nốt nhạc của chánh niệm, của từ bi hỷ xả.

Tấm tranh như bên trên:

*

Nơi phần trên, chúng ta có nêu câu hỏi rằng khi các nhà sư vào Nam thời thế kỷ 18, đã dạy pháp thế nào? Đó là chuyện thời xưa: có thầy dạy Thiền, có thầy dạy Tịnh Độ. Và rồi, thời nay cũng thế.

Để cúng dường Tam Bảo, và để tiện dụng cho quý thầy và Phật tử, tôi đã làm hai bài thơ -- một về Thiền Tập, và một về Niệm Phật. Cả hai bài đều được nhạc sĩ Trần Chí Phúc (trancungson@yahoo.com) phổ thành nhạc. Các Gia Đình Phật Tử cần bản ký âm (music sheet), tôi tin là nhạc sĩ họ Trần sẽ không từ chối, khi hoàn tất.

Cũng cần ghi nhận rằng: khi ngồi Thiền hay khi Niệm Phật, nếu tâm lạc sang chỗ quyến luyến tiếng nhạc hay ý thơ, như thế cũng không nên. Vì sẽ vướng vào chỗ Đức Phật đã cấm, nghĩa là, dính mãi vào cõi này.

Nếu để ý, sau khi dự một buổi hòa nhạc xuất sắc, thí dụ, một đêm nhạc Trịnh Công Sơn hay Phạm Duy, một số điệu nhạc vẫn vướng vất trong tâm chúng ta, cả khi về nhà, cả khi bắt đầu ngủ, và có khi tiếng nhạc theo trong tâm lâu tới vài ngày. Không chỉ thế, nhan sắc các cô ca sĩ cũng đôi khi thoảng qua trong tâm chúng ta nhiều giờ.  Có cách nào để khi bảo thôi, thế là tâm dứt bặt mọi âm vang, hình bóng?

Có thể, mỗi người có phản ứng khác. Riêng tôi, có cách này hiệu nghiệm, có thể một số đạo hữu cũng sẽ thấy hữu dụng: nghiến răng thật nhẹ, nhẹ tới mức ra tiếng nhỏ hay không cần ra tiếng, và chú tâm nghe cái nghe đó, trong khi quan sát cử động nghiến răng đó, tự nhiên các điện nhạc lảng vảng trong đầu biến mất. Tương tự cũng mất cả các hình bóng lảng vảng. Nghĩa là, dùng tới pháp nghe của Kinh Lăng Nghiêm, niệm cái tánh nghe, lập tức các câu nhạc họ Trịnh, họ Phạm đều biến mất tiêu.

*

Sau đây là bài thơ về Thiền Tập.

Lắng Nghe Hơi Thở

Ngồi xuống dịu dàng
ngồi xuống dịu dàng
ngồi xuống dịu dàng
thư giãn toàn thân

nguyện xin an bình
nguyện xin giải thoát
cho con, cho ba
cho mẹ, cho anh
cho chị, cho em
cho khắp mọi người

Toàn thân dịu dàng
mắt khép nhẹ nhàng
lắng nghe thở vào thật nhẹ
lắng nghe thở ra thật nhẹ

Toàn thân dịu dàng
lặng lẽ phập phồng
cảm nhận thở vào thật nhẹ
cảm nhận thở ra thật nhẹ

Ngày qua, không nghĩ tới
ngày sau, chẳng bận tâm
lắng nghe và cảm nhận
hơi thởtoàn thân

Ngày qua, không nghĩ tới
ngày sau, chẳng bận tâm
lắng nghe và cảm nhận
hơi thởtoàn thân

Toàn thân dịu dàng
lặng lẽ lắng nghe
cảm nhận hơi thở
ngấm vào toàn thân
từ đầu tới chân

Toàn thân dịu dàng
buông xả tất cả
hiện tâm gương sáng
hơi thở lặng lẽ
niềm vui không lời.


Sau đây là bài thơ về pháp Niệm Phật.

Niệm Phật Trọn Thân Tâm

Nam Mô A Di Đà Phật
Nam Mô A Di Đà Phật
Nam Mô A Di Đà Phật

Quy y trọn thân tâm
ba đời Phật Pháp Tăng
tội cũ con sám hối
thiện mới con tinh cần
thân tâm một niệm
Nam Mô A Di Đà Phật

Niệm Phật nguyện vãng sanh
thành chữ viết trang kinh
thành mưa cho lúa mọc
thành thuyền pháp qua sông
cứu người thoát khổ
Nam Mô A Di Đà Phật

Niệm Phật là tay niệm Phật, nâng người té ngã, dìu người qua sông
Niệm Phật là chân niệm Phật, đi muôn ngàn dặm, đưa người tới nhà
Niệm Phật là lời niệm Phật, hóa chữ thành thơ, gọi người tỉnh giác
Niệm Phật là thân niệm Phật, toàn thân từ bi, độ vô lượng người

Niệm Phật niệm toàn thân
Phật hiện sáng ngời tâm
nhìn tâm là thấy Phật
nhìn Phật là thấy tâm
quay đầu là bờ
Nam Mô A Di Đà Phật

Niệm Phật nghe dịu dàng
từng chữ hiện rồi tan
thấy từng niệm ngời sáng
Tịnh độ hóa toàn thân
hiện tâm vô lượng
Nam Mô A Di Đà Phật.

 

*

Đó là hai trong những ca khúc hẳn là cần thiết cho rất nhiều Phật Tử. Một ca khúc cho Thiền, và một ca khúc cho Tịnh Độ. Xin mời cùng nhau tu học.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11139)
Trong đạo Phật, cái thương đích thực nó được làm bằng cái hiểu, không hiểu thì không có thương. Cha mà nếu không hiểu con thì càng thương con, con càng khổ.
(Xem: 13225)
Tự lựcyếu chỉ để mình vượt thoát mọi khổ đau, nó có được khi mình hiểu đến nơi đến chốn, khi mình biết thương mình thật sự.
(Xem: 13382)
Khi trong ta đã có tâm tuệ, mọi hành xử của ta đều có mặt của tuệ, nên chúng không bị đối ngại bởi những nhận thức hữu ngã...
(Xem: 13995)
Mỗi tuần lễ đều có hai ngày mà chúng ta không cần phải bận tâm lo âu đến và suy nghĩ đến. Ngày thứ nhứt là Hôm Qua...
(Xem: 13235)
Ngài có công lớn đem Phật giáo vào thế giới phương Tây, mang lại hòa hợp giữa các tôn giáo, trồng cây Bồ Đềvị trí tương xứng với nhân loại ngày nay.
(Xem: 13639)
Cuộc sống là phụ thuộc lẫn nhau. Để có được hạnh phúc, một người cần phải cống hiến nuôi dưỡng hết mình cho xã hội và cho tất cả chúng sinh.
(Xem: 13290)
Ờ, thì nôn nao, thì nhớ, thì… nôn nao. Nhớ hình bóng quê nhà, là nhớ mẹ. Nhớ lúc mẹ lật đật chạy từ trong nhà ra ngõ đón mình về.
(Xem: 13211)
Một vị Bồ tát đạt được giải thoát như một vị a la hán bồ tát trên con đường trở thành một vị Phật. Nhưng ngài không dừng ở đấy; ngài sẽ hoạt động xa hơn để đạt đến giác ngộ.
(Xem: 13012)
Nói đến Tết, chúng ta thường nghĩ tới một dịp vui đầu năm mới - Tết Nguyên đán (còn gọi là Tết cả)...
(Xem: 12516)
Kính đa tạ quý Ôn giảng sư, quý thầy, quý ni sư, quý sư cô luôn hiện diện đầy đủ trong lớp học để thời gian an cư ngắn ngủi tại PHVQT năm 2011
(Xem: 14127)
Đời sống của ngài hàng ngày theo một thời khóa giản dị. Ngài dậy trước khi hừng đông, một thời gian hoàn toàn êm ả và tĩnh lặng thật tuyệt hảo để thiền quán.
(Xem: 12413)
Mỗi ngày được lên trang nhà và đọc một câu chuyện đêm khuya cũng giúp mình tịnh tâm học hỏi được chút ít gì làm hành trang cho chính mình trên con đường tu tập nên mình vui lắm.
(Xem: 13008)
Với dân số khoảng hơn 6 triệu người và có tới 1.400 ngôi chùa lớn nhỏ, Lào là nước có tỉ lệ chùa cao nhất thế giới so với số dân.
(Xem: 13348)
Phật giáo vượt qua giới hạn của cá nhân-nhận ra sự thật của sự liên kết lẫn nhau có nghĩa là cùng tham gia với mọi người trong một thế giới rộng lớn hơn.
(Xem: 11710)
Giới trí thức Phật giáo luôn quan tâm đến nghiệp vận tôn giáo mình trên quê hương cũng như nơi đất khách. Họ vẫn ngồi lại mỗi khi có dịp, nỗi ưu tư được nêu ra...
(Xem: 12579)
Về phương diện tinh thần, hơi thở còn có khả năng làm lắng dịu và chữa trị những cảm xúc tuyệt vọng, lo âu, sợ hãi, bất an v.v... trong ta được bình phục.
(Xem: 13267)
Con người ta nếu sống chân thành, thật thà với chính mình, với người thì cái tâm ấy như vàng, như kim cương nên không sợ chi lửa.
(Xem: 13118)
Văn học Phật giáo có kể về những kỹ nữ là những Phật tử thuần thành. Trưởng lão ni kệ có kể về hai kỹ nữ, cũng là hai chị em Vimala và Sarama.
(Xem: 19459)
Thủ Dầu Một đầu tiên là địa danh vùng, rồi địa danh các đơn vị hành chính các cấp: hạt TDM (1869), tỉnh TDM (1899), thị xã TDM (1975).
(Xem: 13357)
Dù lý giải như thế nào đi nữa thì cũng dễ dàng nhận thấy là mối quan hệ tình cảm của con người là cái quan trọng nhất vượt lên trên cả tiền bạc, vật chất...
(Xem: 13530)
Ta phải thực tập chính niệm để duy trì cái thấy vô thường; cái thấy các pháp tương tác duyên khởi ở trong thế gian, đang bị vô thường bức hại...
(Xem: 17676)
Trước miếu Quan Âm mỗi ngày có vô số người tới thắp hương lễ Phật, khói hương nghi ngút. Trên cây xà ngang trước miếu có con nhện chăng tơ...
(Xem: 14100)
Tại biên giới của tỉnh Tây Khương sát với Tây Tạng có một bà lão sống cô độc, chồng và đứa con trai duy nhất của bà đã qua đời.
(Xem: 12951)
Một vị thiền sư nọ cất túp lều tranh trong rừng sâu sống ẩn dật tu luyện không tranh đua với đời. Thiền sư tiếp xúc với cỏ cây nhiều hơn con người cho nên tâm hồn ông rất thanh thản vô vi.
(Xem: 14035)
Thanh lọc tâm mình bằng cách thiền tập hoặc niệm Phật để tiếp xúc với năng lượng tĩnh lặng từ bên ngoài lẫn bên trong là cách làm của người tin Phật, có trí.
(Xem: 12148)
Có một thứ mà khi càng cho đi thì càng có thêm nhiều, đó là lòng tốt. Có một loại năng lượng nào càng sử dụng, thậm chí càng xài phí thì càng có nhiều thêm, đó là lòng tốt.
(Xem: 11887)
Thời giansự thật, nơi bôi xóa, giấu che và hiển lộ tất cả. Trong nghĩa ấy, thời gianlịch sử. Lịch sử được làm nên từ những ánh rực rỡ và những lặng thầm, trên đường đi của nhân loại.
(Xem: 13090)
Một ngày nọ, chàng trai muốn đi xuất gia. Chàng nói ý định này với người bạn thanh mai trúc mã của mình. Nàng thiếu nữ nghe xong thoáng buồn và hỏi lại...
(Xem: 13368)
Sơ suất có thể làm hại mình, hại người, nhất là trong những quyết định quan trọng. Đó là bài học tôi nghe được từ một người thầy.
(Xem: 11932)
Dầu cuộc đời có bận rộn và nhiêu khê đến đâu, hãy nhớ dừng lại để thở, để nhìn nụ cười trong những đóa hoa, mây bay trong tách cà phê thơm...
(Xem: 17049)
Công việc sẽ chiếm phần lớn cuộc đời bạn và cách duy nhất để thành công một cách thực sự là hãy làm những việc mà bạn tin rằng đó là những việc tuyệt vời.
(Xem: 12412)
Đức Phật đã khẳng định rằng nữ giới và nam giới đều bình đẳng trong khả năng chứng ngộ, và vì lý do đó Ngài đã cho phép họ được xuất gia...
(Xem: 12728)
Hè đến, những cánh phượng nhuộm đỏ một góc đường. Ta lại bồi hồi nhớ lại ký ức xưa cũ. Con đường đất, mái nhà xiu vẹo...
(Xem: 12309)
Hành trang đi vào trong vô thường để tìm chân thường, biết huyễn mộng vẫn đi vào huyễn mộng, để tìm lại con người chân thật, con người của thảnh thơi, thanh tịnh, hạnh phúc...
(Xem: 13995)
Mỗi bước chân và mỗi cái nhìn của mình có thể chế tác được năng lượng an lạc. Mình bước tới và mình biết là mình đang chạm vào tịnh độ.
(Xem: 12375)
Hạnh phúc luôn có mặt trên những chặng đường ta đi qua chứ không phải ở cuối con đường. Hạnh phúc có thể được tìm thấy trong từng phút giây ta sống...
(Xem: 11730)
Nếu mọi người, mọi nhà đều thực hành Luật Nhân Quả họăc biết sợ Nhân Quả thì thế giới này biến thành một Cung Trời mà chẳng cần phải bôn ba tìm kiếm Thiên Đường ở đâu khác.
(Xem: 12478)
Chư Phật Bồ tát xuất hiện ở đời vì chúng sinh mà khởi đại bi tâm, khải mê khai ngộ. Các Ngài đã phát đại nguyện ban vui cứu khổ, phụng sự cho chúng sinh mà không quản nại mọi khó khăn...
(Xem: 12968)
Khi bạn đau khổ, có những vấn đề, mắc bệnh ung thư, bệnh aids, rắc rối trong mối quan hệ, bất kỳ điều gì, hãy nghĩ: “Nguyện đại dương khổ đau sinh tử của tất cả chúng sinh khô cạn.”
(Xem: 13063)
Ở đây, mình đi tìm mùa xuân của lòng người, lòng mình, nên chỉ cần ngồi thật im, thật vững chãi và chế tác năng lượng mùa xuân...
(Xem: 12267)
Để có được sự trưởng dưỡng nội tâm, chúng ta cần phải sống chậm lại, chú ý lắng nghe nhiều hơn, nói ít đi, quan tâm nhiều hơn tới tiếng nói của nội tâm mình...
(Xem: 12330)
Trong cuộc sống cần rất nhiều thiện hạnh để nâng đỡ cho tinh thầnđời sống của chúng ta. Nếu không có những thiện hạnh, chúng ta sẽ dễ sao nhãng tinh thần...
(Xem: 11721)
Một phê bình luôn phải đặt vững trên nền tảng thực tại riêng của nó – thực tại mà nhãn quan của nó làm phát lộ, cái thực tại đặc thù bởi trong cách thức đặc thù mà liên hệ đến cái thực tại...
(Xem: 11778)
VNPG không phải là một phong trào hay một giai đoạn làm ăn phát đạt nhờ mua bán giỏi, mà là một nền tảng đạo đức chuyên biệt, dung chứa những tâm nguyện cao cả...
(Xem: 12109)
Chúng ta may mắn có một đạo Phật, dưới ánh sáng của Đấng Giác ngộ với tấm lòng Từ bi và Trí tuệ, xuất hiện trên cuộc đời uế trược nầy vì lợi ích cho trời người.
(Xem: 13132)
Lắng nghe mọi người, để hiểu và thương. Đó cũng là một cách nói rằng: tôi luôn có mặt cho mọi người, nhất là những người đang khổ đau.
(Xem: 12657)
Khi mình niệm hơi thở, nụ cười, là khi mình làm cho tâm mình lắng dịu, như hồ nước không gợn sóng, có nghĩa là mình có định.
(Xem: 13119)
Giác ngộ mới là cái cần làm, trong đó trước tiên là hiểu mình, đến hiểu bản chất của cuộc sống vạn vật, rồi quay lại với cuộc sống sôi động.
(Xem: 11688)
Thịt bò nói riêng và súc vật nuôi để làm thức ăn cho con người nói chung đã và đang tổn hại môi trường sinh thái.
(Xem: 14905)
Đức Đạt Lai Lạt Ma đã làm rõ ràng việc chúng ta có thể tha thứ ra sao nhưng vẫn tin rằng trong ý chí tự do chọn lựa, tất cả chúng tathể không phải hành động tổn hạithực hiện những điều tốt đẹp.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant