Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Hạnh PhúcHạnh Phúc Thực Sự Theo Quan Điểm Phật Giáo

29 Tháng Tám 201513:15(Xem: 10333)
Hạnh Phúc Và Hạnh Phúc Thực Sự Theo Quan Điểm Phật Giáo

HẠNH PHÚC & HẠNH PHÚC THỰC SỰ
THEO QUAN ĐIỂM PHẬT GIÁO
Qua kinh Hạnh phúc người tại gia (1) và kinh Điềm lành (Mangala Sutta)

TT Thích Giác Như

Hạnh Phúc Và Hạnh Phúc Thực Sự Theo Quan Điểm Phật Giáo


Có một cuộc sống hạnh phúcước mơ của tất cả mọi người. Tuy nhiên, ý nghĩa hạnh phúc tùy thuộc vào trình độ nhận thức hay quan điểm về cuộc sống của mỗi cá nhân. Do đó, ý nghĩa hạnh phúc thật là đa dạng và khác biệt.

Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống (sense pleasures), như có được tiền bạc, sắc đẹp, danh vọng, tiện nghi, v.v.; và hạnh phúc về tinh thần (mental happiness), như tâm được vui mừngan lạc.(2) Sự xuất hiện của Đức Phậtthế gian và nội dung giáo lý Phật giáo không ngoài mục tiêu đem lại an lạc, hạnh phúc cho chư thiênloài người. Nội dung giáo lý này là Tứ diệu đế(Cattāri Ariya-saccāni, The Four Noble Truths) bao gồm: dukkha (khổ), nguyên nhân của dukkha, sự đoạn tận dukkha, và phương pháp đem đến sự đoạn tận dukkha.

Trong các kinh Nikāya, Đức Phật thường khuyên các đệ tử truyền bá nội dung này “Vì lòng thương cuộc đời và vì an lạc, hạnh phúc cho chư thiênloài người, các ngươi nên truyền bá giáo pháp khắp mọi nơi”. Vậy hạnh phúc theo quan điểm của Phật giáo là như thế nào, và bằng vào phương pháp nào để đạt được hạnh phúc đó? Quan trọng hơn, Phật giáo cho rằng mọi hiện hữuvô thường, như thế, hạnh phúccon người có được trong bất cứ hình thức nào - vật chất hay tinh thần - đều bị chi phối bởi luật vô thường. Vậy thì hạnh phúc thực sự theo quan điểm Phật giáo là gì? Bài viết này cố gắng trả lời những câu hỏi trên qua ý nghĩa kinh Hạnh phúc người tại gia và kinh Điềm lành.

A. Hạnh phúc tương đối (Hạnh phúc bị chi phối bởi luật vô thường)

Ước mong của bản thângia đình được hạnh phúc là điều ước chung của con người trong bất cứ thời đại nào. Ý tưởng này được thể hiện qua lời hỏi của Dighajanu đến với Đức Phật trong kinh Hạnh phúc người tại gia: “Bạch Ngài, chúng con là những người cư sĩ tại gia, có vợ và con cái. Mong Ngài dạy bảo cho con được biết bằng cách nào để đời sống hiện tạiđời sau này con được hạnh phúc”. Khi đó Đức Phật dạy cho Dighajanu bốn điều cần phải làm để tạo cuộc sống hiện tại được hạnh phúc:

1. Phải có một nghề nghiệp giỏi, phải siêng năng và nhiệt thành trong nghề nghiệp của mình.

2. Phải bảo vệ nguồn thu nhập của mình đừng để bị thiên tai làm tổn hại, và trộm cắp lường gạt. Nguồn thu nhập phải hợp pháp.

3. Tránh xa bạn ác. Luôn cẩn thậnhọc hỏi với những người có đức hạnhtrí tuệ.

4. Chi tiêu phải phù hợp với thu nhập của mình, không tiêu pha lãng phí tiền bạc trong cờ bạc và tửu sắc.

Để tạo cho đời sống tương lai được hạnh phúc, Đức Phật khuyên Dighajanu phải thực hiện bốn điều sau đây:

1. Có niềm tin trọn vẹn về giá trị đạo đứctâm linh (tức là có đức tin Tam bảo, Phật, Pháp, Tăng và tin luật nhân quả).

2. Thực hành năm điều đạo đức bằng cách không giết hại, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối và không dùng những chất làm não loạn tâm trí như rượu và ma túy.

3. Bố thí và làm những công việc từ thiện.

4. Phát triển trí tuệ để thấy được bản chất vô thường của cuộc đời, và giúp đoạn tận khổ đau (dukkha).

Tương tự như nội dung những điều trên mà Đức Phật đã dạy cho Dighajuna, trong kinh Điềm lànhmột vị Thiên tử đã hỏi Phật rằng bằng vào cách nào để các chúng sinh trong cõi người và trời được hạnh phúc. Đức Phật đã trả lời câu hỏi của vị Thiên tử qua những bài kệ sau:

 Không thân cận kẻ ngu,

 Nhưng gần gũi bậc trí,

 Đảnh lễ người đáng lễ.

 Là điềm lành tối thượng.

Ở trú xứ thích hợp,

Công đức trước đã làm, 

Chân chánh hướng tự tâm,

điềm lành tối thượng.

Học nhiều nghề nghiệp giỏi,

Khéo huấn luyện học tập,

Nói những lời khéo nói,

điềm lành tối thượng.

Hiếu dưỡng với cha mẹ,

Nuôi nấng vợ và con,

Làm nghề không rắc rối,

điềm lành tối thượng.

Bố thí hành đúng pháp,

Săn sóc các bà con,

Làm nghiệp không lỗi lầm,

điềm lành tối thượng.

Chấm dứt từ bỏ ác,

Chế ngự đam mê rượu,

Trong Pháp, không phóng dật

điềm lành tối thượng (3)

Nhìn vào những điều Đức Phật dạy cho Dighajanu và những lời dạy của Ngài trong phần đầu của kinh Điềm lành, ta thấy cả hai cùng diễn đạt một nội dung về những phương pháp thực hành căn bảnthiết thực để xây dựng một đời sống hạnh phúc: có nghề nghiệp giỏi để kinh tế gia đình được ổn định; biết hiếu dưỡng cha mẹ và nuôi nấng vợ con, gia đình sẽ được hạnh phúc; thực hành bố thí thì kết quả có được cuộc sống giàu có; và thân cận với bạn lành giúp phát triển đạo đứctrí tuệ.

Điều quan trọng ở đây là, trong bốn điều cần phải thực hành để có một đời sống tương lai hạnh phúc, Đức Phật đã dạy cho Dighajanu biết tầm quan trọng của sự thiết lập niềm tin về giá trị đạo đức trong cuộc sống (điều 1). Theo Phật dạy, muốn có hạnh phúc trong đời sống, mỗi cá nhân phải xem giá trị đạo đức là hướng đi hay kim chỉ nam cho đời sống của mình; nếu không, cuộc sống sẽ không bao giờ có hạnh phúc. Ý nghĩa đạo đứcĐức Phật dạy cho Dighajanu có thể hiểu qua hai cấp độ liên hệ; thứ nhất, đạo đức phổ biến (universal ethics), tức là năm giới hay năm điều cơ bản đạo đức (điều 2 và 3); và thứ hai, siêu đạo đức (super-ethics) là sự thanh lọc tâm tham, sân, si bằng trí tuệ để đoạn tận gốc rễ khổ đau và đạt hạnh phúc thực sự (điều 4). (Phần này sẽ được trình bày trong đoạn tiếp). Để thể hiện niềm tin vào giá trị đạo đức phổ biến, cả nhân loại phải thực hành năm điều đạo đức cơ bản: không giết hại, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối và không uống rượu. 

Theo luật nhân quả trong Phật giáo, do tạo nhân lành qua sự thực hành năm giới, cá nhân sẽ có được kết quả tương ứng về một đời sống hạnh phúc: thân thể khỏe mạnh và sống lâu; cuộc sống được giàu có; gia đình được hạnh phúc; có một cuộc sống hài hòa trong tương quan với mọi người; và tâm luôn được minh mẫn. Đến đây, qua lời dạy của Đức Phật như được trình bày ở trên, chúng ta hiểu được thế nào là hạnh phúc và làm thế nào để đạt được nó. Ở đây cũng cần nhắc lại là ở phần đầu bài, hai phạm trù hạnh phúc đã được nêu lên, đó là hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ trong đời sống của mỗi cá nhân (sense pleasures) hạnh phúc về tinh thần (mental happiness). Ý nghĩa hạnh phúcĐức Phật dạy cho Dighajanu, cũng như ý nghĩa hạnh phúc được trình bày trong những phần đầu của kinh Điềm lành gồm hai phạm trù đó; nghĩa là sự vui mừng, và an lạc của cá nhân cùng tương quan sinh khởi với sự giàu có, gia đình hạnh phúc, sống lâu, khỏe mạnh, danh vọng, và tiện nghi, v.v... 

Có một trường hợp ngoại lệ liên hệ đến hạnh phúc về tinh thần; đó là những chúng sinh đạt được một trong bốn tầng bậc của Tứ thiền (Dhyāna, trance).(4) Đối với những chúng sinh này, hạnh phúc về tinh thần không còn tùy thuộc vào kinh nghiệmcảm thọ của các quan năng, mà thuần là sự sinh khởi từ tâm thức. Theo Phật giáo, hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ thế giới bên ngoài hay hạnh phúc về tinh thần - dù tinh thần ở mức độ cao như ở Tứ thiền - tất cả đều bị chi phối bởi luật vô thường. Do vậy, loại hạnh phúc này được gọi là hạnh phúc tương đối.

B. Hạnh phúc thực sự

Hạnh phúc thực sự theo quan điểm Phật giáo là gì? Đó là sự chấm dứt khổ đau (dukkha) được giải thích như là Diệt đế (Nirodhā, P.) trong Tứ diệu đế; hay nói một cách rốt ráo, hạnh phúc thực sự là sự tự tại trong khổ đau, sầu muộnsợ hãi. Chữ khổ hay dukkha nghĩa là không được xứng ý toại lòng (unsatisfactory). Trong giáo lý Tứ diệu đế, ngoài ý nghĩa chỉ rõ những kinh nghiệm khổ đau thường tình trong đời như sinh, lão, bệnh, tử, v.v..., ý nghĩa thâm sâu của khổ hay dukkha được cho là năm uẩn có tính chấp chặt hay bám víu (pañc' upadanakkhandha, P. The five aggrevates of grasping), thông thường được diễn đạt trong từ Hán-Việt như “Ngũ uẩn thủ là khổ”. Trong trường hợp này, chữ “khổ” mang ý nghĩa không được toại ý được hiểu ở mức độ rộng hơn. Vì sao không được toại ý? Vì bản chất của ngũ uẩn hay bản chất của con ngườicuộc đờivô thường, nhưng ước muốn của con người là thường, do vậy khổ - Vô thường là khổ (yad aniccam tam dukkham, P.). Sự không được toại ý làm con người thất vọng và chịu những hệ quả sầu muộn, lo âusợ hãi. Khổ do không được toại ý hiện diện thường trựcchi phối đời sống con người - ngoại trừ những người đã giác ngộ.

Nhìn vào thực tế của đời sống, con người luôn luôn ước mong bản thân và những sở hữu yêu quý của bản thân như tiền bạc, danh vọng, tình yêu, tiện nghi, và những ý thức hệ, v.v... được trường tồn vĩnh cửu; nhưng cuộc đờivô thường nên ước mong vĩnh cửu của con người không bao giờ hiện thực. Và hậu quả của sự ước mong không được như ý này làm cho người thất vọng, sợ hãi, sầu muộnlo âu khi nghĩ đến hoặc khi mất đi những gì mình yêu quý đó.

Làm sao để đoạn trừ khổ đau, sợ hãi, lo âusầu muộn; hay nói cách khác, làm sao để đạt được hạnh phúc thực sự trong cuộc sống? Phương pháp mà Phật đã dạy cho Dighajanu là sự phát triển trí tuệ qua tu tập để đoạn tận khổ đau (điều 4), và đây chính là nội dung được Đức Phật dạy trong Đạo đế (Magga,P.) trong giáo lý Tứ đế. Mục đích của sự phát triển trí tuệ (Paññā, P.) là giúp cá nhân thấy được bản chất của ngũ uẩn hay bản chất của con ngườicuộc đờivô thường. Để phát triển trí tuệ, cá nhân phải thực hành giới (Sīla, P.) hay những đạo đức căn bản, và thực tập thiền định (meditation). Giới giúp cho phát triển định, và định giúp phát triển tuệ. 

Thực tập thiền định trong Phật giáo đòi hỏi hai phần hỗ tương: tập trung tâm không để tán loạn - định(Samādhi, P. Concentration) và hướng tâm theo dõighi nhận rõ ràng trên đối tượng - niệm (Sati, P.Mindfulness) và đối tượng này có thể là một trong bốn loại - thân, cảm thọ, tâm và pháp.(5) Do năng lực tập trung tâm để quan sátghi nhận rõ ràng trên đối tượng, hành giả trực nhận được tính bất ổn, biến chuyển hay vô thường của đối tượng. Khả năng trực nhận hay kinh nghiệm trực tiếp này, được gọi là tuệ(Paññā, P. Wisdom)(6)

Do trực nhận được tính vô thường của đối tượng, hành giả giải phóng ý niệm bám víu và mong cho những gì mình yêu thích được vĩnh cửu, và kết quả là khổ đau, thất vọng, sầu muộnsợ hãi được đoạn trừ hoàn toàn. Điều quan trọng phải được nhấn mạnh ở đây là người thực chứng được cuộc đời vô thường, cũng phải sống như bao nhiêu người khác trong cuộc đời. Nghĩa là họ cũng phải làm việc, ăn uống, ngủ nghỉ và cần phải có các phương tiện để tạo cho cuộc sống được hạnh phúc. Tuy nhiên, họ chỉ xem những thứ đó như là phương tiện chứ không phải cứu cánh. Người đó có một cuộc sống tự chủ, không bị nô lệ bởi tiền bạc, danh vọng và những tiện nghi vật chất khác. Họ tự tại an nhiên trong vui buồn, vinh nhụcthăng trầm của cuộc sống. Đây chính là ý nghĩa hạnh phúc thực sự được hiểu như là sự tự tại trong khổ đau, sầu muộnsợ hãi, được Đức Phật dạy ở những bài kệ cuối của kinh Điềm lành:

 Khắc khổ và phạm hạnh,

 Thấy được lý Thánh đế,

 Giác ngộ quả: Niết-bàn,

điềm lành tối thượng.

Khi xúc chạm việc đời,

Tâm không sầu, không động,

Không uế nhiễm, an ổn

điềm lành tối thượng.

Ai sống được như thế,

Không chỗ nào thất bại,

Khắp nơi được an toàn

Những điềm lành tối thượng.

Người như vậy trong đạo Phật gọi là “người tỉnh thức” hay “người giác ngộ”. Do trực nhận hay giác ngộ được tính vô thường của con ngườicuộc đời, tâm của vị ấy được tịnh hóa, không còn bị lòng tham và bám víu chi phối. Lòng tham và tính bám víu đồng nghĩa với vô minh, vị ngãđộc ác. Ngược lại với vô minh, vị ngãđộc ác, người giác ngộtrí tuệ rốt ráolòng từ bi vô biên. Do lòng từ bi vô biên, người giác ngộ thấy được khổ đau của tất cả mọi chúng sinh như là khổ đau của chính mình, và nguyện cứu giúp tất cả; với trí tuệ rốt ráo, người giác ngộ thi thiết những phương tiện thiện xảo để đem lại hạnh phúc tương đối (như tiền bạc, danh vọng, hạnh phúc gia đình, tiện nghi vật chất, v.v...) cho chúng sinh và từ đó hướng dẫn chúng sinh thực tập giáo pháp để được hạnh phúc thực sự. 

Sống an nhiên tự tại trong đời với tâm không bị tham lam bám víu chi phối, và làm tất cả mọi việc để lợi ích cho chúng sinh với động cơ của lòng từ bi là ý nghĩa “siêu đạo đức” trong Phật giáo. Đức Phật là người giác ngộ. Đại Trí Văn Thù Bồ-tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ-tát, Quán Thế Âm Bồ-tát, Địa Tạng Vương Bồ-tát, Phật hoàng Trần Nhân Tông, v.v..., là những người giác ngộ. Những vị này giúp chuyển hóa khổ đau của chúng sinh thành hạnh phúcthế giới ô trược thành tịnh độ.

C. Kết luận

Qua hai bài kinh trên, ta thấy ngôn ngữ và cách diễn đạt trong kinh Hạnh phúc người tại gia rất cụ thểthực tế với đời sống; trong khi đó, ngôn ngữ và cách diễn đạt trong kinh Điềm lành có nét văn chương và đậm tính triết lý. Đối tượng để Phật giảng trong kinh đầu là người - Dighajanu - trong khi đó, kinh sau là chư thiên. Ngoài những điểm khác biệt trên hình thức đó ra, hai bài kinh đều có nội dung thống nhất, chuyển tải quan điểm hạnh phúc trong Phật giáo; đó là, trong khi không phủ nhận giá trị hạnh phúccon người (và chư thiên) có được trong cuộc đời, Đức Phật dạy cho chúng ta biết rằng đó không phải là hạnh phúc thực sự. Hạnh phúc thực sự theo Phật dạy là sự trực nhận được hạnh phúccon ngườichư thiên có được chỉ là tương đối (vô thường). Đây chính là ý nghĩa “Sinh tử tức Niết-bàn”, “Phiền não tức Bồ-đề” mà Phật giáo Đại thừa xem như là triết lý tu tập và phương thức hành đạo của Bồ-tát. 

 TT.Thích Giác Như 

_____________________

(1) Trong bản dịch của Hòa thượng Thích Minh Châu, đề mục của kinh là “Dighajanu, Người Koliya.”, chương 8, số 54 trong Tăng chi bộ kinh, trang điện tử: phatgiaonguyenthuy.com. Dựa trên nội dung của bài kinh, tôi chuyển đề mục thành đề “Kinh Hạnh phúc người tại gia”. Mục đích là giúp độc giả nghe thuận tai và dễ nhớ.

(2) “Phẩm Lạc,” chương II, phẩm VII, Tăng chi bộ kinh (Aṅguttara Nikāya); Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt, trang điện tử: phatgiaonguyenthuy.com   

(3) “Kinh Điềm lành” (Mangala Sutta), Tiểu bộ kinh (Khuddhaka Nikāya). Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt, trang điện tử: phatgiaonguyenthuy.com 

(4) Tứ thiền:

- Sơ thiền: Do tách rời lòng dục và những tâm lý bất thiện, tâm của hành giả được “hỷ” và “lạc” (rapture and happiness); tuy nhiên, tâm vẫn còn “tầm” và “tứ” (reflection and investigation).

- Nhị thiền: Do tâm được trở nên tập trung và tĩnh lặng, hành giả loại trừ được “tầm” và “tứ.” Hỷ và lạc vẫn còn.

- Tam thiền: Do nỗ lực an trú tâm trong tĩnh lặng, nên “hỷ” được đoạn trừ, và chỉ còn “lạc.”

- Tứ thiền: Tâm của hành giả được hoàn toàn tĩnh lặng (equanimity), vắng mặt những ý niệm thiện, ác, hạnh phúc hay khổ đau.

(5) “Kinh Niệm xứ,” số 10, Trung bộ kinh (Majjhima Nikāya). Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt, trang điện tử: phatgiaonguyenthuy.com. Đây là một trong những bài kinh đầy đủ và quan trọng nhất nói về thiền định, đặc biệt nhấn mạnh về sự phát triển Minh sát tuệ (Vipassanā, P. Insight). Trong kinh Đức Phật dạy, Tứ niệm xứ hay bốn lãnh vực gồm thân, thọ, tâm và pháp, mà hành giả cần để tâm chánh niệmcon đường trực tiếp dẫn đến giải thoát hay hạnh phúc thực sự.

(6) Trí tuệ trong Phật giáo bao gồm ba tầng bậc: nghe, nghĩ và thực hành (văn, tư, tu). Để đoạn tận khổ đau, sầu muộn, lo âu, hành giả phải thực hành (tuệ). Tuy nhiên, nghe và tư duy về vô thường hay bản chất tương đối của con ngườicuộc đời sẽ giúp đoạn thiểu khổ đau, sầu muộn trong đời sống. Bởi tiến trình nghe pháp hay tụng kinh, ý nghĩa vô thường sẽ thẩm thấu vào tâm thức của mình và sẽ tạo nên một kháng lực mỗi khi chúng ta gặp những sự cố bất như ý trong cuộc sống. Từ đó, những khổ đau, sầu muộn sẽ được giảm thiểu một cách đáng kể. Đây là lý do tại sao các Phật tử phải nên nghe pháptụng kinh thường xuyên.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11484)
Đạo Phật là đạo của từ bi luôn mang yêu thương đến với muôn loài và sẵn sàng chia sẻ những nỗi khổ niềm đau, hầu giúp cho tất cả chúng sinh vượt qua biển khổ sông mê.
(Xem: 8868)
Cái gì đã đưa đẩy con người vào đường cùng không chút lương tâm để rồi phải sống trên xương máu và sự đau khổ của nhiều người.
(Xem: 8178)
Trong thời Phật còn tại thế, có một vị quan tổng trấn đã từng làm quan gần hai chục năm; nhờ nhân duyên tốt nên ông từ bỏ quyền lực, danh vọng, xuất gia làm Tỳ kheo.
(Xem: 9624)
Quán Thế Âm có nghĩa là quán chiếu, suy xét, lắng nghe âm thanh của thế gian.
(Xem: 10322)
Trong kiếp sống nhân sinh ai cũng phải trãi qua những thăng trầm của cuộc sống để kinh nghiệm được những bài học vố giá của trường đời.
(Xem: 9500)
Tính viên mãn vốn sẵn là một chủ đề chính trong kinh Hoa Nghiêm. Sự viên mãn vốn sẵn có này biểu hiện khắp cả vũ trụ, trong thế giới vĩ mô và thế giới vi mô.
(Xem: 9737)
Nếu chúng ta có một trái tim tràn đầy tình thương yêu thì có phải sẽ mang lại bình an không? Một trái tim tràn đầy thương yêu mà ta đang nói tới có nghĩa là gì?
(Xem: 11371)
Dân gian ta có câu: “Dầu xây chin bậc Phù đồ, Không bằng làm phúc cứu cho môt người”.
(Xem: 9668)
Ni Sư Thubten Chodron thường chú trọng đến việc áp dụng những điều Phật dạy vào đời sống hằng ngày của chúng ta
(Xem: 10163)
Sự hiện hữu của ta bao gồm thân và tâm. Ta cần quan tâm đến cả hai, dầu thiền là một hoạt động của tâm, chứ không phải thân.
(Xem: 9404)
Theo truyền thống Phật giáo Nam truyền (Theravāda), mùa an cư của chư Tăng bắt đầu từ ngày 16 tháng 6 âm lịchkết thúc vào ngày rằm tháng 9 âm lịch.
(Xem: 9032)
Sinh sống có chánh niệm là một trong các quan niệm của đạo Phật nói về thái độ cẩn trọngsáng suốt của người xuất gia trong đời sống sinh hoạt hàng ngày.
(Xem: 11353)
Hiện nay có rất nhiều người trên thế giới thực hành ăn chay. Có người ăn chay trường, có người ăn chay kỳ, có người ăn chay tùy thích…
(Xem: 11382)
Tâm kinh Bát-nhã có câu nói nổi tiếng đề cập phương pháp giải thoát khổ đau rất truyền thống của đạo Phật Nguyên thủy, được nhấn mạnh trong các bản kinh Nikàya.
(Xem: 9667)
Để có hạnh phúc cho mình, người ta quên bẵng đi những thiệt thòi, tổn hại và khổ đau của kẻ khác. Đến khi khổ đau, mất mát, thì oán trách, đổ lỗi cho tha nhân.
(Xem: 8250)
Nếu chúng ta biết cố gắng làm việc tốt và chuyển tâm xấu ác thành tâm tốt thì quả sẽ thay đổi theo chiều hướng tốt.
(Xem: 9617)
Chánh mạngphương kế sinh nhai chân chánh (còn gọi là phương tiện sống chân chánh). Trong Kinh DI GIÁO Đức Phật dạy các Tỳ kheo về Phương tiện thanh tịnh:
(Xem: 9877)
”Thế Tôn! Ngài Quán Thế Âm Bồ-tát do nhơn duyên gì mà tên là Quán Thế Âm?”.
(Xem: 9266)
Chắc hẳn quý vị đều nghĩ rằng sau khi đạt được Giác Ngộ thì Đức Phật nhất định phải có một cuộc sống thật thoải mái, có đúng thế hay chăng?
(Xem: 9779)
Đức Phật đã từng nói rằng: "Nầy các Tỳ Kheo, bất cứ ai muốn chăm sóc ta, người ấy phải muốn chăm sóc người bệnh"
(Xem: 9775)
Bái sám nhiều mà tội diệt phước sinh là không đúng về nhân quả.
(Xem: 8187)
Giáo pháp do Đức Phật dạy có rất nhiều nhưng trọng tâm vẫn là Bát Chánh đạo.
(Xem: 9140)
Từ khi trên quả đất này có sự sống, con người và muôn loài vật được tồn tại bằng luyến ái, tức là sự thương yêu,
(Xem: 22575)
Mặt trời hừng đông. Ngày mới lại đến. Buổi sáng bắt đầu cho một ngày mới của đời sống.
(Xem: 9389)
Thiền là một cách huấn luyện tâm, do đó, nếu chúng ta càng thực tập nhiều, càng thực tập đều đặn, chúng ta càng nhìn thấy sự tiến bộ của chúng ta.
(Xem: 17842)
Suy cho cùng, chính bạn chứ không phải ai khác là người chịu trách nhiệm cho việc bạn sử dụng số ngày còn lại của mình trong cuộc đời này ra sao.
(Xem: 10149)
Đức Phật dạy: “Nhứt thiết duy tâm tạo” tất cả đều do tâm tạo, “...Duy ngã độc tôn” “cái ta” là tối cao và quan trọng nhất, quyết định tất cả,
(Xem: 10700)
Đức Phật nêu lên Sự Thật Cao Quý Thứ Nhất và gọi Sự Thật này là dukkha. Thuật ngữ dukkha trong tiếng Pa-li thường được dịch là "khổ đau" (suffering)
(Xem: 10885)
Phát Bồ-đề tâm là phát sanh một ý nguyện đạt đến giác ngộ để cứu thoát tất cả chúng sanh.
(Xem: 9758)
Khi chưa biết tu, thân ta có khi làm việc thiện lành tốt đẹp, có lúc ta làm việc xấu ác gây nhiều tội lỗi, miệng có khi nói lời ngọt ngào dễ thương, có lúc nói
(Xem: 9391)
Nếu chúng ta phản ứng mạnh mẽ với tiếng ồn, nghĩa là chúng ta dấn thân vào cuộc chiến mà chúng ta không thể nào dành được phần thắng.
(Xem: 10383)
Trong nhiều pháp thoại, Thế Tôn thường sử dụng các hình ảnh trực quan để minh họa cho những giáo huấn của Ngài.
(Xem: 9467)
Nói đến tình thương, theo thế tục, chúng ta liên tưởng đến đối tượng của tình thương với những điều kiện (như một sự trao đổi tương xứng).
(Xem: 10661)
Đạo Phật dứt khoát không bao giờ chấp nhận việc mê tín Thần quyền, nhứt là những vấn đề tin nhảm nhí, theo một niềm tin mù quáng, không được điều động bởi lý trí.
(Xem: 9669)
Theo sự chỉ dạy của Thế Tôn, người Phật tử cũng có quyền làm giàu để nâng cao sự sống ngoài việc lo tròn trách nhiệm, bổn phận đối với gia đìnhxã hội.
(Xem: 15463)
Khi đến chùa bạn hãy nhớ những điều dưới đây không được nghĩ tới và cũng không được cầu khẩn mong muốn thành hiện thực nhé, những điều này là không nên.
(Xem: 8561)
Một vị lãnh đạo đất nước muốn giúp dân chúng an cư lạc nghiệp, có được cơm no áo ấm và sống an vui, hạnh phúc trên tinh thần vô ngã, vị tha phải là người có ...
(Xem: 11160)
Từ bisức mạnh thế nào, tới mức độ nào, và có thể chuyển hóa được thế gian hay nhân loại hay không
(Xem: 9330)
Người ta thường ngạc nhiên khi khám phá ra rằng thiền rất khó hành. Nhìn bề ngoài nó có vẻ là việc đơn giản, chỉ ngồi xuống chiếc gối nhỏ và theo dõi hơi thở.
(Xem: 8574)
Những ý niệm như vô ngại, đồng thời, đồng hiện, sẵn đủ, viên mãn… không chỉ có trong kinh Hoa Nghiêm mà có trong tất cả kinh điển, nhất là Đại thừa.
(Xem: 8827)
Thế giới loài vật cũng có sự sống sinh hoạt song hành với loài người nên cũng bị vô minh chi phối.
(Xem: 14632)
Chùa Khánh Anh - Paris Pháp Quốc
(Xem: 12744)
Tìm hiểu về quá trình tu tập của Sa-môn Cồ-đàm - nhất là khi từ bỏ vị thầy thứ hai (Uất-đầu-lam-phất) cùng hội chúng, Ngài đi đến Khổ hạnh lâm trải qua 6 năm khổ hạnh;
(Xem: 9658)
Có nhiều người thích trang sức bằng những viên ngọc quý. Tuy nhiên, viên ngọc đẹp đẽ, và to lớn nhất, là viên ngọc trong tâm.
(Xem: 9301)
Môi trường sống để tu học rất quan trọng cho tiến trình thành quả của người thực hành, nếu không nhận ra sự khác biệt trên giáo pháp Đức Thế Tôn dạy và...
(Xem: 9925)
Thí dụ về chiếc bè là một trong những ngụ ngôn và ẩn dụ, quen thuộcnổi tiếng nhất của Đức Phật.
(Xem: 14766)
Khi chim còn sống trên đời Chim ăn kiến nhỏ thấy thời khó chi, Nhưng khi chim bị chết đi Kiến thời ăn nó có gì khó đâu.
(Xem: 9128)
Mỗi khi phải đương đầu với nghịch cảnh hoặc các thứ chướng ngại, thì quý vị nên xem đấy như là một món quà thấm đượm từ biĐạo Pháp mang tặng mình,
(Xem: 10598)
Chúng ta ai cũng biết sân hậnđau khổ vì nó áp lực chúng ta phải giải tỏa những mối đe dọa bằng mọi giá.
(Xem: 10544)
Đức Phật thường ví mình như một vị y sĩ, và Đạo Pháp là phương thuốc Ngài dùng để chữa bệnh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant