Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phương Tiện Thiện Xảo

29 Tháng Mười 201508:20(Xem: 10062)
Phương Tiện Thiện Xảo

PHƯƠNG TIỆN THIỆN XẢO 

Ni Sư Ayya Khema
Diệu Liên Lý Thu Linh

Phương Tiện Thiện Xảo 

Ni Sư Ayya Khema sinh năm 1923, cha mẹ theo đạo Do Thái. Thời thơ ấu bà sống ở Bá Linh. Sau một thời gian nghiên cứu, thực hành thiền Phật giáo, Ni sư bắt đầu truyền dạy Thiền khắp thế giới. Năm 1978, Ni sư thành lập tu viện Theravada Wat Buddha Dhamma, nằm trong một khu rừng, gần Sydney, Úc. Ni sư cũng thành lập Trung Tâm Nữ Phật tử Quốc Tế (International Buddhist Women’s Center) và Đảo Parappuduwa dành cho các Ni (Parappuduwa Nuns Island), tại Tích Lan. Ni sư thọ đại giớiTích Lan vào năm 1979 và là một trong những người tiên phong trong việc tranh đấu cho ni giới.

 Ni Sư đã viết hơn 20 đầu sách về Thiền và Phật giáo bằng tiếng Anh và tiếng Đức. Quyển nổi tiếng nhất là Being Nobody, Going Nowhere (Việt Dịch: Vô Ngã, Vô Ưu), được giải thưởng Christmas Humphreys Memorial Award. Các sách của Ni Sư được thể hiện bằng một sự hiểu biết sâu xa về các công phu tu hành, thành quả của việc hành thiền, là lời kêu gọi mọi người hãy đơn giản hoá cuộc sống và thanh lọc tâm trí bằng cách ứng dụng những lời Phật dạy.

Ni Sư Ayya Khema mất năm 1997 do bịnh ung thư.

+++

Phương Tiện Thiện Xảo

Sự hiện hữu của ta bao gồm thân và tâm.  Ta cần quan tâm đến cả hai, dầu thiền là một hoạt động của tâm, chứ không phải thân.

Những câu hỏi của người mới bắt đầu hành thiền là: “Tôi phải ngồi như thế nào?”  “Làm sao để không bị đau khi ngồi?”  Điều này chỉ có thể được giải quyết trong quá trình tu tập, cứ tiếp tục thực hành mà thôi. Lúc đầu, dĩ nhiên là thân không quen ngồi tréo chân trên sàn nhà.

Chúng ta có thể dùng cơ hội này như một phương tiện tu tập thiện xảo.  Khi thân phát khởi đau, khó chịu, ta tập chú tâm đến phản ứng của tâm, không lập tức thay đổi thế ngồi.

Tất cả mọi người trên thế giới này đều muốn thoát khỏi sự khó chịu, đau đớn, bằng những phản ứng quán tính, tức thời.  Không phải là chúng ta không muốn tránh sự đau đớn, khó chịu, nhưng để sự hành thiền của ta được có kết quả, ta phải tập bỏ những phản ứng theo quán tính, tức thời.  Chính các hành động đó khiến ta phải ở mãi trong vòng luân hồi khổ đau.

Quan trọng là ta phải nhận thức được điều gì đang xảy ra bên trong ta, khi cảm thọ khổ phát khởi.  Ta thấy có sự xúc chạm giác quan.  Thân đang có những xúc chạm; đầu gối tiếp xúc với sàn, hai chân chéo nhau, nhiều sự xúc chạm đang xảy ra nơi thân.  Do các sự tiếp xúc này, cảm thọ phát sinh.  Không có cách gì tránh khỏi, làm con người thì phải chịu thế thôi.  Đức Phật đã dạy về nhân quả, rằng tùy theo sự tiếp xúc của các giác quan, cảm thọ phát sinh.  Có ba loại cảm thọ: khổ, lạc và xả (trung tính).  Tuy nhiên, ít khi chúng ta để ý đến cảm thọ trung tínhThực ra, nó cũng có thể được coi là lạc thọ, vì ít nhất nó không tạo khổ cho ta.  Trong thế ngồi thiền, sau một khoảng thời gian, xúc giác sẽ tạo ra cảm giác khó chịu.  Phản ứng tức thời là chuyển động.  Hãy khoan!  Hãy quán sát!  Khi hiểu được tâm mình, là ta hiểu được thế giới, vũ trụ.  Tâm tất cả mọi người đều có hạt giống giác ngộTuy nhiên, nếu không biết tâm mình, chúng ta không thể phát triển, vun trồng hạt giống đó.  Hiện tại tâm đang tiếp xúc với một cảm thọ khổ, tưởng liền lên tiếng: “Đau quá”.  Tiếp theo đó là các tâm hành, mà cũng là hành nghiệp, vì ta tạo nghiệp quả trong quá trình tư duy.

Đầu tiên là sự xúc chạm giác quan, rồi cảm xúc phát khởi.  Kế là ý nghĩ, tiếp nối bằng khổ thọ.  Ngay giây phút đó, chỉ có cách thoát là chuyển đổi vị thế. Vậy là tạo nghiệp.  Dầu là nghiệp xấu nhỏ, nhưng vẫn xấu, vì tâm ở trong trạng thái tâm sân hận khi nói, “Tôi không thích điều này”.

Tâm có thể bắt đầu đủ thứ lý luận: “Tiếc là mình không mang theo ghế:; “Tôi không thể ngồi được”; “Ở tuổi tôi, lý ra tôi không được làm những việc như thế này”; “Thiền quá khó hành”.  Không có lý giải nào có giá trị đích thực.  Chúng chỉ là phản ứng của tâm đối với cảm thọ khổ.  Nếu không huân tập để biết rõ các phản ứng của tâm, là ta không biết sử dụng thiền một cách tốt nhất.

Biết cảm thọ khổ rồi, giờ ta có thể cố gắng nhận biết bản chất thực sự của nó.  Chúng ta sống tùy thuộc vào các cảm thọ của mình.  Vì thế nếu ta không ý thức về các phản ứng của tâm đối với chúng, là ta sống một cách lơ mơ.  Có một quyển sách nhỏ rất hay, có tựa đề Phép Lạ Của Sự Tỉnh ThứcPhép lạ ở đây không gì khác hơn là chánh niệm, biết điều gì đang xảy ra bên trong.  Khi ý thức được rằng mình muốn thoát khỏi cảm thọ khổ, thì chúng ta có thể cố gắng trốn tránh nó, nhưng chỉ là trong giây lát.  Chỉ có các bậc A-la-hán mới có khả năng hoàn toàn giải thoát, còn chúng ta chỉ có thể làm thế trong một thời gian ngắn ngủi.  Cảm thọ khổ phát khởi không phải do ta mời gọi, nên ta không nên xem chúng là của ta.  Hãy để chúng chỉ là một cảm thọ.

Nếu ta có thể làm thế dù trong giây phút, rồi quay trở về với đối tưọng thiền, là ta đã chiến thắng phản ứng tiêu cực của bản thânTrái lại là ta đã để cho các cảm thọ khổ làm chủ tâm ta bằng mọi cách.  Tất cả mọi chúng sanh đều chạy đuổi theo các lạc thọ, lảng tránh khổ thọ.  Chí ít ta cũng phải biết điều đó, nếu không ta không có căn cớ gì để thay đổi nội tâmHiện tại có thể ta chưa thay đổi được các phản ứng, nhưng ít ra ta cũng biết điều gì đang xảy ra.

Sau khi đã biết được ý hướng của tâm, chúng ta có quyền chuyển động, thay đổi thế ngồi của mình. Tóm lại, không có gì sai khi thay đổi thế ngồi, nhưng sai, nếu ta làm điều đó bằng thói quen, theo quán tính.  Thiền có nghĩa là hoàn toàn tỉnh thứcTỉnh thức không trái nghĩa với đang ngủ; mà trái ngược lại với sự ù lì, đần độnTrạng thái tâm đó đa phần là do sự thiếu ý chí để quan sát chính cái khổ của bản thân.  Ta thà là chôn giấu nó dưới đám sương mù.  Trong thiền điều đó không thể xảy ra.  Đức Phật bảo rằng thân này là ung thư; toàn thân ta là ổ bệnh, khi ngồi yên, ta có thể cảm nhận nó trở nên khốn khổ như thế nào.

Thiền có nghĩa là samatha và vipassana, định và tuệ.  Nếu không biết về những giới hạn cũng như tiềm năng của chúng, ta không thể thực hành đúng.  Trong mỗi thời khóa thiền, chúng ta thường sử dụng cả hai, nhưng ta phải biết phân biệt chúng.  Nếu tâm không biết điều gì đang xảy ra, thì sương mù sẽ bao phủ nó.

Ai cũng thích sự bình an, tĩnh lặng, hạnh phúc.  Đó là ước muốn tự nhiên.  Trong thiền, ta có thể tìm được chúng, khi thực hành thuần thục và có chút duyên lành.  Tuy nhiên, chúng không phải là mục đích của thiền.  Mục đích của thiền là tuệ.  Ta cần có phương tiện thiện xảo để đạt được tuệ và chúng thường được tìm thấy trong thiền định.

Sau nhiều công phu thực hành, sử dụng đề mục thiền quán, tâm có thể trụ vào đó một khoảng thời gianGiả dụ rằng tâm có thể trụ vào hơi thở dù chỉ trong một thời gian ngắn, ta cũng có thể cảm nhận sự bình lặng phát khởi sau đó, do tâm không nghĩ suy.  Quá trình tư duy trong tâm mọi người khó có bao giờ dừng.  Tâm luôn nghĩ suy.  Giống như thân luôn thở, tâm luôn hoạt động.  Và đa số những thứ nó thải ra đều không quan trọng, phóng dật, vô ích, mà nếu không có chúng, ta sẽ thấy hạnh phúc hơn nhiều.

Tâm trong bản thể ban đầu của nó rất thuần khiết.  Nó rõ ràng, trong sáng, uyển chuyển, phóng khoángChính tư duy là cặn bẩn, là vật cản đường.  Gần như không có ai là không suy nghĩ suốt ngày, dầu một cách vô thức.  Nhưng khi bắt đầu hành thiền, ta trở nên ý thức về sự lăng xăng trong tâm.  Ta nhận ra rằng thật khó giữ tâm trụ vào đề mục thiền quán, vì tâm thích suy nghĩ hơn hành thiền.  Khi nhận ra được thói quen suy nghĩ này (dầu cần có thời gian tu tập trước khi điều đó xảy ra), tức là ta đã thành tựu được hai thứ.  Ta trở nên ý thức về các hoạt động của tâm, cũng như nội dung suy tư.  Ta sẽ nhận ra ngay rằng các suy nghĩ của mình không đáng kể, không có ý nghĩa gì to tát.  Nhờ đó, ta có thể buông bỏ nó khá dễ dàng để quay về với đề mục thiền quánChúng ta phải tạo khả năng đứng lùi lại, quan sát quá trình tư duy mà không cảm thấy vướng mắc với nó.  Trái lại ta sẽ cứ tiếp tục suy nghĩ thay vì hành thiền.

Tâm là công cụ vĩ đại nhưng mong manh nhất trong vũ trụ.  Ai cũng có tâm, nhưng ít ai biết chăm sóc nó đúng cách.  Ai cũng lo chăm sóc thân.  Lo cho nó ăn, ngủ, tắm rửa, tập thể dục, khám bệnh, cắt móng, cắt tóc, chữa răng, làm đủ mọi thứ cần thiết để thân được khỏe mạnh, thoải máiThực ra, thân là đầy tớ, tâm mới là ông chủ.  Té ra ta lo phục vụ đầy tớ mà bỏ quên ông chủ.  Nếu trong gia đìnhchúng ta làm thế, thì loạn.  Đó là một trong những lý do tại sao thế giới dường như đang đảo lộn.  Người ta giết hại lẫn nhau, trộm cướp của nhau, không chung thủy, gian dối, dèm pha, nói xấu nhau.  Không ai nghĩ rằng tâm là tài sản quý giá nhất.  Nó mang đến cho ta những gia tài không gì có thể so sánh, vậy mà ta không biết cách chăm sóc nó.

Chúng ta phải chăm sóc cho tâm giống như cho thân.  Ta phải cho nó nghỉ ngơi.  Thử tưởng tượng nếu chúng ta không ngủ ba hay bốn ngày, ta sẽ cảm thấy thế nào?  Ta sẽ thiếu sinh lực, mệt mỏi, khổ sở.  Thân cần được nghỉ ngơi, tâm cũng thế.  Cả ngày nó phải suy nghĩ, đêm thì mộng mị.  Nó luôn bận rộn.  Sự nghỉ ngơi thực sự mà nó có thể có được, để có năng lượng thúc đẩy nó trở nên trong sáng, nhu nhuyến, là được trụ vào các đề mục thiền quán.

Tâm cần được tẩy rửa, có nghĩa là thanh tịnh hóa.  Điều này chỉ có thể xảy ra khi tất cả mọi nghĩ suy được dừng lại trong một khoảng thời gian, nhờ vào định nhất tâm.  Một giây phút định là một giây phút thanh tịnh.  Ở thời điểm đó tâm không thể có ác ý hay tham dục, hay bất cứ sự tiêu cực nào khác.  Khi xả định, tâm trở về lại với những hoạt động bình thường.  Nếu khi hành thiền chúng ta thấy rằng tâm thanh tịnh đem lại cho ta hạnh phúc, thì tự nhiên là ta sẽ cố gắng duy trì quá trình thanh tịnh hóa tâm trong cả những sinh hoạt hằng ngày.

Tâm cần những hoạt động không hướng tới việc chiến thắng hay đạt được bất cứ điều gì, mà chỉ cần hành.  Khi ta muốn tâm trụ trên đề mục thiền, nhưng nó chạy đi chỗ khác, ta biết ngay rằng ta không phải là chủ của tâm mình, mà nó chỉ làm những gì nó thích.   Khi nhận ra điều đó, ta sẽ ít bám vào quan điểm, ý kiến của mình nữa, nhất là khi chúng bất thiện, vì ta biết là tâm chỉ suy nghĩ theo thói quen.  Chỉ qua quá trình hành thiền chúng ta mới ý thức được điều đó.

Tâm cũng cần có thực phẩm riêng cho nó.  Vi trong khi hành thiền, chúng tathể đạt đến các trạng thái tâm thức cao hơn, nhờ đó ta có thể nuôi dưỡng tâm theo cách mà quá trình tư duy thông thường không thể thực hiện được.  Hạnh phúc, bình an phát khởi mà không tùy thuộc vào các điều kiện bên ngoài, cho ta sự tự do mới mẻ.

Tâm của mọi chúng sanh đều có sẵn hạt giống Niết bànChúng ta cần huấn luyện tâm để nhận biết điều gì đang che mờ tầm nhìn của ta.  Rồi hạt giống đó mới có thể được vun trồng, phân bón cho đến lúc ra quả, hoàn mãn.  Vì tâm có những khả năng như thế, nó cũng tiềm tàng sự bình an, hạnh phúcmọi người kiếm tìm.  Phần đông chúng ta cố gắng thỏa mãn nhu cầu đó bằng cách kiếm tìm những đối tưọng vật chất, bằng cách nhìn, chạm, nếm hay ý thức về chúng.  Đặc biệt là muốn có nhiều thêm và giữ chặt lấy chúng.

Sự tùy thuộc đó chắc chắn đưa đến khổ đau.  Khi nào ta còn tùy thuộc vào những điều kiện bên ngoài, dẫu đó là con người, xứ sở, tôn giáo, tiền tài hay danh vọng, chúng ta luôn sợ mất chúng, vì mọi thứ đều chuyển đổibiến hoại.  Cách duy nhất để có được hạnh phúc, bình an thực sự, là phải độc lập với tất cả mọi thứ quanh ta.  Có nghĩa là đạt được tâm thanh tịnh mà không cần phải suy tư, là có thể trụ được vào đề mục thiền đủ lâu để tâm thức có thể chuyển đổiTâm thức nghĩ suy là thức mà tất cả chúng ta đều biết đến.  Nó luôn lên xuống, thích hoặc không thích, mong cầu ở tương lai, ân hận chuyện quá khứ, hướng tới tương lai hay hoài niệm quá khứ.  Lúc nào tâm cũng xao động, ta không thể mong nó hoàn toàn được bình an.

Chúng ta ai cũng quen thuộc với một loại thức khác, thí dụ khi ta yêu thương ai rất mực.  Tình cảm đó chuyển đổi tâm thức đến độ ta hoàn toàn quên mìnhCũng thế khi nó liên quan đến vấn đề tôn giáo, khi tín tâm phát khởiChúng ta hiến thân cho một lý tưởng.  Dầu những thứ này không tồn tại lâu, và tất cả đều tùy thuộc vào các điều kiện bên ngoài.

Qua việc hành thiền, chúng ta có thể chuyển đổi tâm thức đến chỗ ý thức được sự thuần khiết bên trong ta, thứ mà tất cả chúng ta đều sở hữu, chỉ là hiện tại đang bị che mờ bởi vô minhChúng ta sẽ ý thức được rằng sự bình an, hạnh phúc tự tại đó chỉ có thể có mặt khi “cái tôi”, “cái của tôi” được gạt qua một bên, dù chỉ trong chốc lát, khi ý nghĩ “tôi muốn được hạnh phúc”, được dẹp bỏ.  Ta không thể có bình an, hạnh phúc khi còn nghĩ đến “cái tôi”.  Đó là cái ta cần hiểu trước hết khi đức Phật nói về vô ngã (anatta), là cách thoát khổ (dukkha).

Vì tâm khó trụ vào đề mục thiền quán, ta phải sử dụng tất cả mọi thứ có thể để phát khởi tuệ giácDần dần tâm trở nên trong sáng, nhạy bén và không còn bị các hành ở bên ngoài làm ảnh hưởng đến, như là âm thanh hay tư tưởng, là những thứ thường xảy ra.  Cuối cùng định sâu thẳm có thể đạt tới.

Khi các cảm thọ khó chịu phát khởi, hãy sử dụng chúng để phát triển tuệ giácChúng ta không mời chúng đến, tại sao lại nhận chúng là ta?  Chắc chắn chúng sẽ thay đổi, sẽ tệ hơn hay tốt hơn, chúng chuyển vị thế, và chúng cho ta thấy rõ ràng có thân là khổ (dukkha).

Thân không làm gì cả, chỉ ngồi, vậy mà chúng ta thấy khổ, chỉ vì lý do đơn giản là ta không thích cái cảm thọ vừa phát khởi.  Khi ta sử dụng khổ thọ đó để thực sự ý thức về đế thứ nhất và thứ hai của tứ diệu đế, là tâm ta đang tiến gần hơn đến với Pháp.  Đế thứ nhất là diệu đế về khổ, đế thứ hai là nguyên nhân của khổ, là ái dục.  Trong trường hợp này, chúng ta tham muốn thoát khỏi các cảm giác khó chịu.  Nếu ta hoàn toàn chấp nhận các cảm thọ, không đánh giá ưa ghét, sẽ không có khổ.

Chúng ta có thể cố gắng buông xả ái dục này trong chốc lát; bất cứ ai với chút ý chí đều có thể làm được.  Chỉ chấp nhận cảm giác đó như nó là, không ghét bỏ, không bám víu, thì sẽ không có khổ, trong chỉ giây phút đó.  Nhưng đó là một sự trải nghiệm sâu sắc về tuệ giác, vì nó cho ta thấy không chút nghi ngờ rằng nếu ta buông bỏ được các ái dục, khổ sẽ biến mất.  Dĩ nhiên khi thân đang đau, ta khó thể buông bỏ ước muốn được thoát khỏi sự đau đớn, khó chịu.  Tuy nhiên, nếu chỉ trong phút giây thì ai cũng có thể làm được, và đó là một sự trải nghiệm căn bản, sâu sắc trong Pháp.

Khi ta có thể lùi lại để quan sát quá trình tư duy của mình, ta sẽ thấy là tâm không dừng suy nghĩ.  Đối với người chưa có kinh nghiệm hành thiền trước đó, có thể họ phải mất từ 5-10 phút để ý thức về điều đó.  Đối với người đã có kinh nghiệm thì chỉ mất vài giây.  Sau đó ta có thể xét xem mình đắm chìm trong những suy nghĩ gì.  Càng thường xuyên quan sát như thế, ta càng ít chìm đắm trong đó.  Ta trở nên ý thức rằng đó là cách mà tâm chúng sanh hoạt động, không chỉ tâm của ta, mà là của mọi người, như thế là ta biết được một sự thật về tâm.  Không có gì đáng để quan sát hơn việc đó.  Khi ta thấy rằng sự suy tưởng cứ triền miên, tầm phào như thế, ta sẽ dễ dàng buông bỏ hơn.  Ta cũng thấy các ý tưởng này rất chóng qua, chúng luôn đến rồi đi.  Lúc đó, chúng ta sẽ biết từ chính kinh nghiệm bản thân rằng không thể có hạnh phúc thực sự trong những gì quá ngắn ngủi, tạm bợ, vậy mà cả thế giới đều cố gắng đạt được hạnh phúc bằng cách đó.  Chúng ta còn không thể nhớ mình đã nghĩ gì mấy phút trước đó, thì làm sao nó có thể mang hạnh phúc đến cho ta?  Tuệ giác đó giúp ta buông bỏ các vọng tưởngtrở về với đề mục thiền quán.

Chúng ta sử dụng cả hai phương pháp định và tuệ chung với nhau.  Khi định đã được thiết lập vững chải, tuệ sẽ tự động phát sinh.  Điều quan trọng cần nhớ là thiền địnhcăn bản.  Không phải là việc ta có thích hay không thích hành nó.

Nếu biển đang động, có sóng lớn mà ta muốn nhìn xuống dưới đáy sâu thì ta không thể nhìn thấy gì cả.  Vì có quá nhiều chuyển động, tất cả đều bị xáo trộn, nên ta không thể nhìn thấy gì.  Khi sóng tan, mặt biển trở nên bình lặng, trong suốt, thì ta có thể nhìn xuống dưới đáy sâu để thấy cát, thấy san hô và cá đủ màu sắc.  Tâm ta cũng thế.  Khi tâm dậy sóng với nghĩ suy, sự biến động đó trong tâm khiến nó không thể nhìn thấy thực tại tuyệt đối.  Hơn nữa, tâm từ chối không muốn nhìn quá cái hiểu biết thông thường của nó.  Nhưng khi tâm trở nên hoàn toàn tĩnh lặng, không có những phán đoán, chúng ta có thể dễ dàng thấy những gì nằm dưới bề mặt.

Để hiểu được giáo lý của đức Phật, chúng ta phải đào sâu dưới bề mặt, nếu không sự hiểu biết của ta thật nông cạn, giả tạo.  Tâm bình lặng là công cụ giúp ta đào sâu xuống khỏi thực tại tương đối.  Trong khi ta cố gắng để được được tĩnh lặng, đồng thời quan sát một cách khách quan tất cả những gì phát khởi trong tâm, thì càng lúc ta càng thấy có nhiều cơ sở để buông bỏ vọng tưởng.  Ta càng ít dựa vào những nghĩ suy của mình, thì ta càng ít mong chờ, đòi hỏi, và ta càng hạnh phúc hơn khi buông bỏ chúng.  Lúc đó ta sẽ biết thế nào là sự bình an, hạnh phúc nội tại.

Các cảm xúc nội tại này sâu sắc nhất trong thiền, nhưng cũng có thể mang vào cuộc sống hằng ngày một cách nhẹ nhàng hơn, chính là vì tâm biết rằng nó luôn có thể trở về với sự bình an, tĩnh lặng trong thiền, mà không phải phụ thuộc vào bất cứ hoàn cảnh hay bất cứ ai.  Những vấn đề thế gian không còn cay đắng như xưa; chúng chỉ xảy ra, thế thôi, cũng như nghĩ suy, cảm xúc cứ sinh, diệt, mà không có ai là chủ nhân hay người tạo ra chúng.

 

Diệu Liên Lý Thu Linh

10/2015

(Chuyển ngữ theo Skillful Means, là một trong mười bài Pháp thoạiNi Sư Ayya Khema đã giảng trong một khóa tu tại Trung Tâm Đào Tạo Tăng Sĩ Pelmadulla, Tích Lan, năm 1989, và đã được tổng hợp thành sách với tựa đề VISIBLE HERE AND NOW)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11361)
Tất cả chúng sanh vì chẳng thấy Phật tánh nên thường bị phiền não trói buộc mà phải lưu chuyển trong sanh tử.
(Xem: 9874)
Phàm những gì có hình tướng thì tất cả đều bị chi phối bởi sự vô thường, mà đã vô thường thì nguyên nhân chính của nó là khổ...
(Xem: 11277)
Lúc ấy Đức Thế Tôn đã ôn tồn mà nói cùng đại chúng: “Này A Nan! sau khi ta diệt độ các ông hãy nương tựa vào chính mình và hãy lấy giới luật làm thầy.”
(Xem: 9146)
Tất cả những giáo lý của Đức Phật căn cứ trên Bốn Chân Lý Cao Quý. Trong giáo lý Bốn Chân Lý Cao Quý chúng ta nhận ra hai tập hợp của nguyên nhân và hệ quả.
(Xem: 9711)
Thầy dìu dắt từ đó tôi được tiếp xúc gần và rất gần Ngài do vậy tôi học ở ngài được nhiều thứ trong cuộc sống, giờ giấc, tinh tấn, chuyên cần , nhất là việc tu tập v.v...
(Xem: 9787)
Một trong bốn chân lýĐức Phật dạy là chân lý về sự khổ, khổ đế trong Tứ diệu đế. Đức Phật dạy bản chất của thế gian là bất toàn, bất toại nguyện, là vô thường, là đau khổ.
(Xem: 13776)
Chẳng có gì đơn độc sinh ra, tồn tại, chuyển động, và biến mất giữa cõi đời. Chẳng có gì gọi là độc hành, độc lập, độc bộ, độc cư, cô thân, cô độc, cô đơn…
(Xem: 9732)
Đâu hay tất cả đều là sự công bằng tuyệt đối khi ta soi vào nhân duyên nghiệp báo không chỉ ở kiếp này mà từ những kiếp quá khứvị lai được giải thích cặn kẽ trong kinh điển nhà Phật.
(Xem: 12828)
Vận nước như dây quấn, Trời Nam mở thái bình, Vô vi ở điện các, Chốn chốn dứt đao binh...
(Xem: 9873)
Trong giáo lý của đạo Phật, “cho sự không sợ hãi” được xem là một hạnh nguyện cao quý gọi là vô úy thí (abhada-dàna), là Thánh hạnh (Ariya-cariyà), thiện hạnh (kusala- cariyà)
(Xem: 10364)
"Này Angulimala! Ta đã dừng lại từ lâu rồi, chính anh mới là người chưa dừng lại..."
(Xem: 17123)
Thệ giả như tư phù, bất xả trú dạ - Trôi chảy mãi ngày đêm không ngừng nghỉ như thế này ư?
(Xem: 9283)
"Từ lúc này cho đến hết ngày hôm nay, tôi sẽ đưa vào sự thực tập những gì tôi tin tưởng một cách tối đa như tôi có thể"...
(Xem: 10489)
Khi trải qua một cơn bạo bệnh hay tuổi đã xế chiều thì ý niệm về lão-bệnh-tử, tức phải đối mặt với sự chết hiện ra ngày một rõ ràng hơn...
(Xem: 14221)
Một thời đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc nước Xá Vệ (trung Nam Ấn Độ), khi đó Vua Tần Bà Sa La nước Ma Kiệt (trung Bắc Ấn Độ)
(Xem: 9928)
Tôi đến chùa Viên Đức, Đức quốc vào thứ 6, tưởng là sớm, tới nơi lúc 22 giờ 30 Phật tử đã đông nghẹt, mọi phòng đều chật cứng nằm xếp lớp...
(Xem: 11362)
“Vũ trụ mà tôi và bạn thể nghiệm bây giờ, với cây cối, nhà máy, con người, nhà cửa, xe cộ, hành tinh và các thiên hà, chính là ý thức biểu hiện ở một tần số đặc biệt nào đó."
(Xem: 9272)
Sau khi quy y Tam bảo, trở thành Phật tử rồi thì kính lễ, cúng dường Phật-Pháp-Tăng mỗi ngày, mỗi lúc là một trong những hạnh tu căn bản của người con Phật.
(Xem: 11368)
Đọc trong “Tưởng Niệm và Tri Ân,” người đọc sẽ thấy nhà thơ trẻ của chúng ta lúc nào, ở đâu và đối với bất cứ điều gì cũng nghĩ đến ân đức và tình nghĩa.
(Xem: 10842)
Bài phát biểu của của đô đốc William McRaven, người đứng đầu Bộ chỉ huy Các chiến dịch liên hợp đặc biệt - NAVY SEAL - MỸ
(Xem: 14510)
Không có người bạn nào tốt hơn cho tương lai hơn là bố thí - ban cho tặng phẩm thích đáng. Đối với tu sĩ, giáo sĩ, người nghèo, và bạn hữu - Biết những tài sản là chóng tàn phai và vô lực.
(Xem: 10503)
John Stuart Mill: “Tôi đã học cách tìm hạnh phúc bằng cách giới hạn các ham muốn của mình hơn là nỗ lực để thỏa mãn chúng”
(Xem: 9320)
Có lẽ ngày nay nhân loại đã thực sự thức tỉnhnhận ra rằng, không ai có thể cứu rỗi được cho ai hết. Và sẽ không có một thiên đường nào ở ngày mai...
(Xem: 13343)
Khoa học hiện đại đã tiến đến một biên giới, nơi đó sự gặp gỡ của khoa học Tây phương với minh triết truyền thống tâm linh Đông phương là điều tất yếu.
(Xem: 9770)
“Người ngu thấy là ngọt, Khi ác chưa chín muồi; Ác nghiệp chín muồi rồi; Người ngu chịu khổ đau”.
(Xem: 13920)
Tất cả chúng ta vì bị vô minh che lấp nên khi có mặt trên thế gian đều không có nhận thức sáng suốt, do đó ta chỉ lo thụ hưởng sự ăn uốngnhẫn tâm giết hại các loài vật.
(Xem: 20200)
“Nhất thiết hữu vi pháp; Như mộng, huyễn, bào, ảnh; Như lộ diệc như điện; Ưng tác như thị quán.”
(Xem: 10137)
Ta giao tiếp với bạn bè điều tối kỵ nhất là nói về lợi và đừng bao giờ dùng thủ thuật về lợi để mưu cầu.
(Xem: 8587)
Bệnh tật là một nỗi khổ căn bản của chúng sanh, sanh lão bệnh tử khổ. Hễ có thân thì có bệnh, mà đã bệnh tật đau yếu thì không ai muốn và chẳng vui chút nào.
(Xem: 9660)
Nghiệp là một thói quen được tích lũy từ ba nghiệp thân, khẩu, ý, đồng hành với chúng ta trong từng hơi thở, gắn bó thủy chung từ khi ta vừa lọt lòng mẹ cho đến ngày ta nhắm mắt xuôi tay.
(Xem: 8710)
... những câu chuyện buồn và bất hạnh bao giờ cũng để lại những vết khắc sâu thẳm trong tim, khó mà nguôi ngoai dễ dàng.
(Xem: 11009)
Chúng ta đến đây với những giọt nước mắt để hết sức mở một con đường, để rẽ sóng mà đi trên biển đời vô tận.
(Xem: 12466)
Phật tử, chúng ta cần phải nhận định rõ ràng, đức Phật không phải là một vị thần hay thượng đế để ban ơn, giáng họa cho bất cứ ai.
(Xem: 28011)
Tôi tin rằng mọi khổ đau đều sinh ra từ ngu muội. Người ta gây ra đau đớn cho người khác, khi ích kỷ theo đuổi hạnh phúc hay thỏa mãn riêng mình...
(Xem: 10626)
Một vài chiếc thuyền máy lướt qua, tạo những vòng sóng từ nhỏ đến lớn, tỏa ra rồi tan biến trên mặt hồ. Bọt trắng lao xao nổi bật trên giòng nước xanh.
(Xem: 9793)
Đạo Phật là đạo giác ngộ. Giác ngộ là thấy tánh. Muốn thấy tánh thì tu thiền, như đức Thích Ca Mâu Ni do thiền dưới gốc cây Bồ Đềgiác ngộ thành Phật.
(Xem: 11834)
Nhờ chút công đức phóng sanh ngày ấy cho mẫu thân mà tôi cũng được hưởng phước lây, bởi căn bệnh lạ tôi phải chịu đựng 25 năm qua bỗng dưng ra đi không nói lời từ biệt.
(Xem: 10437)
Sống làm sao cho cuộc đời trở nên đáng sống, có ý nghĩa, có lý tưởng, có thương yêu hiểu biết thì đó là Đời Đạo.
(Xem: 8895)
Nhà Phật thường nêu châm ngôn “Bi – Trí – Dũng” để khuyến khích hành giả vận dụng đầy đủ ba đức tính này trong đời sống, không để khiếm khuyết mặt nào.
(Xem: 10542)
Tôi ngồi lặng lẽ, nhìn những lá phong vàng sậm và đỏ ối, âm thầm rơi trong không gian tinh mơ quanh khu nhà quàn. Thấp thoáng vào, ra, là những người chít khăn tang trắng, gương mặt phờ phạc, buồn rầu.
(Xem: 8922)
Cuộc đời của đức Phật rất vĩ đại, vô vàn những điều hay, chúng ta không tài nào học hết được.
(Xem: 9903)
Bài viết dưới đây được dịch từ một bản tiếng Pháp mang tựa là Compassion, medecin insurpassable (Lòng Từ Bi, một vị lương y vô song) của một học giả Phật Giáo rất uyên bác là bà Sofia Stril-Rever.
(Xem: 9551)
Ngọn núi cao như Hy Mã Lạp Sơn cũng từ một hạt bụi mà thành. Đại dương mênh mông như Biển Thái Bình cũng do từng giọt nước mà có.
(Xem: 13933)
Tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên đã là cuốn sách làm say mê độc giả một thời, ấy là vì nó là lời tự bạch của một thế hệ...
(Xem: 16110)
“Con lớn rồi vẫn là con của mẹ, Suốt cuộc đời mẹ vẫn theo con…”
(Xem: 11753)
Hoan hỷ trong mùa Phật Đản đang về, xin cung kính đảnh lễ đức Thế Tôn, bậc Thầy vĩ đại của thế gian, bậc trí tuệ tối thắng không ai bằng.
(Xem: 9047)
Tham lam cũng giống như áng mây mù dày đặc nhưng đôi lúc chúng ta thường gặp ở miền đồi núi, khiến chúng ta không thấy rõ đường đi trước mặt mình.
(Xem: 17659)
Vào đầu thế kỷ XV, ngụy tạo danh nghĩa diệt Hồ phù Trần, nhà Minh sai bọn Trương Phụ, Mộc Thạnh đem quân đánh chiếm nước ta.
(Xem: 9921)
Thật hạnh phúc có được một bậc thầy như Người: Đức Phật. Người đã đến thế giới này để mở lối đi cho tất cả... Vĩnh Hảo
(Xem: 9341)
Bài Tường thuật khoá tu học Phật pháp của Gia Đình Phật Tử Thiện Trí tại Thụy Sĩ lần thứ 6 năm 2014... Trần Thị Nhật Hưng
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant