Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tu Theo Đường Hướng Nào? Phật Giáo Đại Chúng Hay Phật Giáo Thâm Sâu

18 Tháng Mười Một 201506:04(Xem: 9217)
Tu Theo Đường Hướng Nào? Phật Giáo Đại Chúng Hay Phật Giáo Thâm Sâu
TU THEO ĐƯỜNG HƯỚNG NÀO? 

PHẬT GIÁO ĐẠI CHÚNG HAY PHẬT GIÁO THÂM SÂU
Quel bouddhisme?
Une distinction entre bouddhisme populaire et bouddhisme profond


Michel Henri Dufour
Hoang Phong chuyển ngữ

Tu Theo Đường Hướng Nào Phật Giáo Đại Chúng Hay Phật Giáo Thâm Sâu

Lời giới thiệu của người dịch:

            Michel Henri Dufour là một người Pháp tu tập theo Phật giáo Theravada, viết và xuất bản nhiều sách trong số đó có quyển "Tự điển Phật giáo Pa-li - Pháp ngữ" (Dictionnaire Pali-Français du Bouddhisme", Eds des Trois Mondes, 1999, 351 tr.) được nhiều người biết đến. Các bài viết của ông thường rất ngắn, cô đọng, chính xácthiết thực.

            Ông là một người khá kín đáo, không thấy tiểu sử hay hình ảnh nào về ông trong các nguồn tư liệu. Cách nay nhiều năm người chuyển ngữ các dòng dưới đây có dịp gặp ông trong một lễ hội Phật đản do Tổng Hội Phật giáo Pháp tổ chức. Trước sân chùa của Tổng Hội là các quầy hàng của các tông pháihọc phái khác nhau, giới thiệu sách báo và trình bày về các sinh hoạt của mình. Trong số này có một "quầy hàng" thật khiêm tốn, chỉ gồm có một chiếc bàn nhỏ, với một chiếc dù to che nắng, trên bàn có một ít tài liệu và sách biếu, phía sau bàn là Michel Henri Dufour, một người tuổi trạc trung niên, đơn sơ, vui vẻ và từ tốn. Người chuyển ngữ bài viết dưới đây cũng đã mượn dịp này để trao đổi với ông một vài lời chào hỏi.
    

TU THEO ĐƯỜNG HƯỚNG NÀO?
Phật giáo đại chúng hay Phật giáo thâm sâu
Michel Henri Dufour

 

Quảng đại quần chúng cũng như tất cả những người mong muốn tìm hiểu và bước vào Con Đường Phật giáo thường vô cùng hoang mang trước tình trạng có quá nhiều học phái và chi phái khác nhau, và các học phái và chi phái này bề ngoài dường như có vẻ bị tách xa khỏi cội nguồn Giáo Huấn cổ xưa. Sự tiếp cận với Phật giáo trở nên phức tạp vì những sự kết nạp thiếu thuần nhất ảnh hưởng từ các bối cảnh văn hóa xã hội của các quốc giaPhật giáo đã phát triển. Các sự kết nạp đó dù đôi khi không ảnh hưởng đến căn bản của việc tu tập, thế nhưng trong một vài trường hợp cũng đã cho thấy các sự mâu thuẫn (antinomic/trái ngược, nghịch lý) đi ngược lại với các nguyên lý và các lời giáo huấn (precepts) căn bản, và đã không tránh khỏi một sự pha trộn trong giáo lý (syncretism - là một thuật ngữ triết học nói lên một sự du nhập hỗn tạp trên phương diện giáo lýtư tưởng, không tạo ra được một sự thống nhất, mạch lạc và hợp lý) nên đã mang lại thật nhiều tàn phá và tai hại.

            Quả cũng không có gì khó để nhận thấy là bất cứ một học phái nào cũng có hai hình thức tiếp cận và tu tập khác nhau:

            - Phật giáo đại chúng, dưới hình thức một tôn giáo, thiết đặt trên sự sợ hãi, do đó cũng có nghĩa là mang tính cách "tín ngưỡng", một thứ vật chất chủ nghĩa trong lãnh vực tâm linh (intellectual materialism) (có nghĩa là mong cầu đạt được "công đức", được tái sinh trong các điều kiện tốt đẹp hơn, v.v.), qua các nghi lễ cúng dường (rites/cúng dường, hiến sinh để cầu phúc...), các sự vay mượn từ thuyết linh hồn (animism - tín ngưỡng cho rằng các sự vật và hiện tượng thiên nhiên đều hàm chứa linh hồn như con người, các ảnh hưởng này đưa đến các sự tin tưởng dị đoan trong Phật giáo), việc tuân thủ đạo đức, đặt cao giá trị của các hình thức mộ đạo (devotion/sự sùng đạo) và xúc cảm, tức là những gì ở một cấp bậc rất thấp trong sự sinh hoạt của Tăng đoàn (nếu sự tuân thủ giới luật của tăng đoàn lỏng lẻo thì sẽ làm lu mờ sự khác biệt giữa người xuất gia và kẻ thế tục, và do đó người tu hành sẽ không còn chứng tỏ được là mình "trội hơn" người thế tục, bởi vì mình ngày càng trở nên không khác gì với họ) (ý muốn nói là Phật giáo đại chúng - dưới các hình thức tu tập tâm linh mang tính cách "vật chất chủ nghĩa" - cầu xin, gom góp -  sẽ có thể đưa đến nguy cơ biến người tu hành trở thành tương tự như người thế tục).   

            - Phật giáo thâm sâu, duới hình thức một hệ thống triết học, một phép tu tập giúp mình biết sống (trong nguyên bản là: pratique de vie/practice for life), được xây dựng trên sự hiểu biết, trên một thể dạng nào đó của trí tuệ như là một điều kiện tiên quyết, và do đó có thể được xem như là một hình thức "đức tin dựa vào lý trí" (reasoned faith), một phép luyện tập tâm thần (thiền định), hay là một hình thức mộ đạo được đặt đúng vào vị trí của nó. Sangha (Tăng đoàn) tuân thủ một kỷ luật vững chắc, ý thức được tầm quan trọng của đạo đức. Khía cạnh thứ hai này (tức là Phật giáo thâm sâu) có vẻ như là một cách đơn giản giúp nhìn vào tâm thức, thế nhưng trên thực tế là cả một phương pháp tu tập đúng thật trong thế giới Phật giáo, dù là ở Đông Phương hay Tây Phương. Mang nhiều khía cạnh khúc triết nên sự phát triển của thể dạng Phật giáo này khá thu hẹp, do đó phải cần đến nhiều cố gắng mới có thể tiếp cận được. Hơn nữa, những người tu tập theo thể dạng Phật giáo này nhất thiết không mong cầu một sự ngưỡng mộ nào của quảng đại quần chúng hay một sự quan tâm đặc biệt nào của giới truyền thông.   

            Dù rằng Phật giáo (nói chung), qua các mô hình (schemes/sơ đồ, khuôn mẫu, hình thức, góc nhìn) do người Tây Phương thiết đặt, cho thấy một số khía cạnh liên quan đến các lãnh vực tôn giáo, triết học, tâm lý học, và đôi khi cũng có thể xem như là một phương pháp trị liệu. Vì thế mỗi khi nói đến Phật giáo thì nên nói đến thể dạng thứ hai (tức là Phật giáo thâm sâu), bởi vì thể dạng thứ nhất (Phật giáo đại chúng) chỉ phản ảnh các giai thoại liên quan đến Đức Phật mà thôi (không hẳn là Giáo Huấn của Ngài). Vì lý do các khía cạnh của Phật giáo thâm sâu không nhất thiết là những điều bắt buộc (mỗi khi nói đến Phật giáo), nên bất cứ một thực tính (entity/thực thể, thể tính) nào cũng có thể trở thành một đối tượng "tôn thờ" (cult/thờ phượng). Dầu sao thì ít nhất chúng ta cũng phải công nhận là cách tiếp cận đó (tôn thờ bất cứ gì) cũng mang lại một lợi ích nào đó đối với những người chưa trưởng thành trên phương diện tâm linh, thế nhưng đấy lại không phải là Con Đường giải thoát do Đức Phật thuyết giảng, và dầu sao đi nữa thì cũng không thể xem đấy như là những bước đầu tiên trong việc tu tập được.  

                Hơn nữa phải chăng người ta cũng có thể nêu cao một lý tưởng tâm linh qua các sự phong phú và sâu sắc của Phật giáo, nhưng không làm giảm giá trị của Phật giáo, khi cho rằng chỉ có một người sau khi đã đạt được giác ngộ thì mới có thể đưa ra một phương thuốc hiệu nghiệm cho từng mỗi con người.

            Những gì thường được nêu lên và cho rằng đấy là Giáo Huấn Phật giáo thật ra cũng chỉ tương tự như một gian phòng đợi (anteroom/phòng ngồi chờ) của Phật giáo mà thôi (nhiều bài giảng, bài viết... tự nhận là nêu lên giáo lý Phật giáo hay là "lời Phật dạy" nhưng thật ra chỉ mang tính cách "chạy vòng ngoài", không phải là Giáo Huấn của Đức Phật. Tiếc thay các loại bài giảng và bài viết này thì lại nhiều vô kể, khiến gây thêm hoang mang và đánh lạc hướng người tu tập mà thôi. Michel Henri Dufour nêu lên hình ảnh một gian phòng đợi để nói lên tình trạng này: ngưòi ngồi chờ phải kiên nhẫn hoặc nếu sốt ruột thì đi lanh quanh, hoặc đọc vớ vẫn "sách báo củ rích" đặt sẵn trong phòng, nhưng không ai nghĩ đến là phải tìm cho mình một lối thoát). Nhiều người chỉ biết đi quanh trong gian phòng đợi mà không hề nghĩ đến việc phải mở cánh cửa của gian phòng ấy để tự vượt thoát và tiến xa hơn, tệ hơn nữa là những người ngồi chờ cũng có thể không ngờ là gian phòng lại có cái cửa ấy. Do đó trong một số tập thể (những người tu hành, các tông pháihọc phái), người ta mong muốn đưa ra một Phật giáo "phóng khoáng", ít gò bó hơn. Tuy nhiên phải hiểu rằng đấy không phải là một xảo thuật tuyên truyền hay một cách quảng cáo bịa đặt nhằm đánh lừa chúng ta, mà đúng hơn là một cách xử dụng các phương tiện cần thiết gọi là "upaya kosalla" (tức là các "phương tiện thiện xảo": upaya có nghĩa là "phương tiện", "phương pháp" hay "kỹ thuật"; kosalla có nghĩa là "khéo léo", "thích hợp"). Trong bối cảnh ngày nay thì cũng nên nghĩ đến các phương tiện cần thiết ấy qua các sự "cải tiến" giúp cho giới luật và có thể cả một vài điểm trong Giáo Huấn quá gò bó trở nên thích nghi hơn.     

            Tuy nhiên nếu đi quá xa thì cũng e rằng nền "văn minh tân tiến" ngày nay sẽ lấn lướt và làm phương hại đến các giá trị hiển nhiêncăn bản đặc thù trong Giáo Huấn của Đức Phật. Chiều theo sự đòi hỏi của các sự thèm khát sẽ làm mất đi ý nghĩa cao cả của sự nghèo khó và biết an phận, chạy theo những sự phù phiếm sẽ làm mất đi tính cách thiết thực của những gì chủ yếu, nhanh chóng và hối hả sẽ làm mất đi sự từ tốn và thận trọng, hung hăng sẽ làm mất đi sự dịu dàngan bình trong tâm thức, các khuôn phép của xã hội sẽ làm mất đi các phẩm tính siêu nhiên. Những thứ ấy cũng chỉ là cách đưa đến tình trạng mà mình xem những gì gọi là nền văn minh hiện đại như những thứ giá trị tột đỉnh làm khuôn mẫu cho tất cả các cung cách hành xử và các sự thỏa hiệp (compromises) (trong xã hội con người)

Vài lời ghi chú của người dịch

            Bài viết trên đây tuy ngắn nhưng hàm chứa những ý nghĩa thật sâu xa khiến chúng ta phải suy nghĩ thật nhiều, không những từng câu viết mà cả từng chữ. Chẳng hạn như chữ "duy vật chủ nghĩa" trên phương diện tâm linh, nói lên các xu hướng tu tập mang tính cách gom góp và bám víu của Phật giáo đại chúng. Đó cũng là một cách làm hạ thấp giá trị của Phật giáo, tách Phật giáo ra khỏi Con Đường do Đức Phật vạch ra.

            Chủ đích của bài viết là giải quyết một vấn đề vô cùng chủ yếu và căn bản là nếu muốn tu tập thì nên "tu tập theo Phật giáo nào?", thế nhưng trong bài viết thì tác giả lại không nói đến hay chỉ định đích danh một tông phái hay học phái nào cả, mà chỉ nêu lên một vài nhận định và một tầm nhìn thật bao quát về Phật giáo nói chung rồi để chúng ta tự suy đoántìm hiểu lấy.

            Dầu sao thì tác giả cũng cho biết là có hai hình thức Phật giáo: một Phật giáo đại chúng, đặt nặng các khía cạnh tín ngưỡng, nghi lễ, lòng mộ đạo, sự mong cầu; và một Phật giáo thâm sâu hay trí tuệ, hướng vào sự "hiểu biết": có nghĩa là hiểu biết chính mình, hiểu biết kẻ khác, hiểu biết xã hội, hiểu biết nhân loạihiểu biết thiên nhiên. Nói một cách khác, giản dị, trực tiếp và dễ hiểu hơn là: một Phật giáo hướng thẳng vào Đức Phật như một phương tiện mang lại niềm hân hoan, sự an ủiche chở; và một Phật giáo không nhất thiết hướng vào Đức Phật, mà chỉ nhìn vào nếp sống của Ngài như một tấm gương, và xem Giáo Huấn của Ngài như một Con Đường.

            Trong phần kết luận, tác giả còn đề nghị thêm một sự mở rộng khi cho rằng cũng nên "cải tiến" và "thích nghi" một số giới luật và một vài quan điểm để được phù hợp hơn với thế giới tân tiến ngày nay, và cũng chỉ cần xem đấy như các "phương tiện thiện xảo" (upaya kosalla) đã được áp dụng trong quá khứ. Thế nhưng đồng thời ông cũng cảnh giác chúng ta là những gì mà chúng ta xem là "nền văn minh hiện đại" chưa hẳn là những "giá trị tuyệt đối" mà mọi người phải noi theo. Thật vậy cứ nhìn vào thế giới ngày nay thì chúng sẽ thấy ngay hậu quả mang lại từ "nền văn minh hiện đại" đó của chúng ta: súng đạn quá nhiều, trong các thành phố sang trọngvăn minh cho đến những xó kẹt nghèo nàn nhất trên thế giới, nơi nào cũng có súng đạn.

            Sau hết, câu cuối cùng của bài viết quả đáng cho chúng ta suy tư và chiêm nghiệm hầu giúp mình ý thức được cung cách hành xử của mình giữa sự sinh hoạt của nền văn minh hiện đại. Dù ở một nơi nào, trong thời đại nào, và gặp phải bối cảnh nào thì cung cách hành xử của một người Phật giáo phải luôn phản ảnh được các giá trị của tình thương yêu, sự hòa giải, lòng bao dungrộng lượng. Tự sát và hung bạo đi ngược lại với các giá trị đó và vi phạm một trong số bốn giới luật nghiêm trọng nhất của Phật giáo gọi là parajika (Hán dịch là ba-la-di). Thế nhưng trong bối cảnh của "nền văn minh hiện đại" của nhân loại ngày nay, thì các hành động đó lại ngày càng trở nên quen thuộc.

            Trong câu kết luận cuối cùng của bài viết còn có một chữ khiến chúng ta không tránh khỏi phải bàng hoàng, đó là chữ "thỏa hiệp" (compromise). Chữ này trong các ngôn ngữ Tây Phương mang ý nghĩa rất tiêu cực, tức là "thỏa hiệp" để làm một cái gì đó không chính đáng. Thế nhưng trong "nền văn minh hiện đại" của chúng ta thì lại có quá nhiều sự "thỏa hiệp" - đôi khi trá hình để trở thành một cách "làm ngơ" - giữa các thế lực, liên quan đến mọi lãnh vực quyền lợi, như kinh tế, chính trị, v.v. Những sự "thỏa hiệp" đó có thể khiến cho cả một lục địa bị khai thác và trở nên khốn cùng, một quốc gia hiếu hòa trên một vùng núi cao bị mất nước, một vùng mênh mông nhiều tài nguyên thiên nhiên lâm vào cảnh chém giết triền miên. Chúng ta thường ít quan tâm đến các sự "thỏa hiệp" hay cố tình "làm ngơ" đó của "nền văn minh hiện đại", bởi vì chúng ta thường chú trọng nhiều hơn đến các máy truyền hình với màn ảnh rộng và các máy điện thoại cầm tay loại tối tân nhất.  

            Bất chấp những sự "thỏa hiệp" thiếu chính đáng trong xã hội, thù ghét sự tự sát và hung bạo dù là ở đâu, và chỉ biết nghĩ đến việc so sánh giá cả của các máy điện thoại hiện đại..., thì đấy là cung cách hành xử "vô minh". Một cung cách hành xử "đúng đắn" là ý thức được sự tự sát và hung bạo phát sinh từ những thứ khổ đau hiện ra bên trong tâm thức con người, và những thứ khổ đau ấy thì lại bắt nguồn từ hận thù và uất ức. Một người tu tập phải luôn nhìn vào tâm thức mình, tìm hiểu chính mình, bổn phận và trọng trách của mình, để hiểu rằng nếu không muốn nhìn thấy những cảnh tự sát và hung bạo, thì không nên gây ra hận thù và uất ức cho kẻ khác.

            Bài viết của Michel Henri Dufour tuy ngắn gọn nhưng cũng hàm chứa nhiều điều sâu sắc khiến chúng ta phải suy nghĩ, và nếu suy nghĩ đúng đắn thì chúng ta tất cũng sẽ vạch ra được cho mình một con đường.

                                                                                    Bures-Sur-Yvette, 18.11.15

                                                                                     Hoang Phong chuyển ngữ

                                   

Độc giả có thể tìm xem bản gốc tiếng Pháp của bài trên đây trên trang mạng: http://www.buddhaline.net/Quel-bouddhisme 

Ngoài ra độc giả cũng có thể liên lạc với Hiệp Hội Phật giáo Theravada do tác giả thành lập qua địa chỉ sau:

Association Bouddhique Theravâda
c/o Michel Henri Dufour, 22 rue de la Grange Aubel, 71000 SANCÉ - France
Điện thoại: 03 85 20 14 42 , hoặc từ ngoài nước Pháp: (00.33.3) 85 20 14 42

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8858)
Cái gì đã đưa đẩy con người vào đường cùng không chút lương tâm để rồi phải sống trên xương máu và sự đau khổ của nhiều người.
(Xem: 8172)
Trong thời Phật còn tại thế, có một vị quan tổng trấn đã từng làm quan gần hai chục năm; nhờ nhân duyên tốt nên ông từ bỏ quyền lực, danh vọng, xuất gia làm Tỳ kheo.
(Xem: 9622)
Quán Thế Âm có nghĩa là quán chiếu, suy xét, lắng nghe âm thanh của thế gian.
(Xem: 10316)
Trong kiếp sống nhân sinh ai cũng phải trãi qua những thăng trầm của cuộc sống để kinh nghiệm được những bài học vố giá của trường đời.
(Xem: 9494)
Tính viên mãn vốn sẵn là một chủ đề chính trong kinh Hoa Nghiêm. Sự viên mãn vốn sẵn có này biểu hiện khắp cả vũ trụ, trong thế giới vĩ mô và thế giới vi mô.
(Xem: 9730)
Nếu chúng ta có một trái tim tràn đầy tình thương yêu thì có phải sẽ mang lại bình an không? Một trái tim tràn đầy thương yêu mà ta đang nói tới có nghĩa là gì?
(Xem: 11367)
Dân gian ta có câu: “Dầu xây chin bậc Phù đồ, Không bằng làm phúc cứu cho môt người”.
(Xem: 9660)
Ni Sư Thubten Chodron thường chú trọng đến việc áp dụng những điều Phật dạy vào đời sống hằng ngày của chúng ta
(Xem: 10158)
Sự hiện hữu của ta bao gồm thân và tâm. Ta cần quan tâm đến cả hai, dầu thiền là một hoạt động của tâm, chứ không phải thân.
(Xem: 9402)
Theo truyền thống Phật giáo Nam truyền (Theravāda), mùa an cư của chư Tăng bắt đầu từ ngày 16 tháng 6 âm lịchkết thúc vào ngày rằm tháng 9 âm lịch.
(Xem: 9028)
Sinh sống có chánh niệm là một trong các quan niệm của đạo Phật nói về thái độ cẩn trọngsáng suốt của người xuất gia trong đời sống sinh hoạt hàng ngày.
(Xem: 11345)
Hiện nay có rất nhiều người trên thế giới thực hành ăn chay. Có người ăn chay trường, có người ăn chay kỳ, có người ăn chay tùy thích…
(Xem: 11378)
Tâm kinh Bát-nhã có câu nói nổi tiếng đề cập phương pháp giải thoát khổ đau rất truyền thống của đạo Phật Nguyên thủy, được nhấn mạnh trong các bản kinh Nikàya.
(Xem: 9659)
Để có hạnh phúc cho mình, người ta quên bẵng đi những thiệt thòi, tổn hại và khổ đau của kẻ khác. Đến khi khổ đau, mất mát, thì oán trách, đổ lỗi cho tha nhân.
(Xem: 8247)
Nếu chúng ta biết cố gắng làm việc tốt và chuyển tâm xấu ác thành tâm tốt thì quả sẽ thay đổi theo chiều hướng tốt.
(Xem: 9614)
Chánh mạngphương kế sinh nhai chân chánh (còn gọi là phương tiện sống chân chánh). Trong Kinh DI GIÁO Đức Phật dạy các Tỳ kheo về Phương tiện thanh tịnh:
(Xem: 9868)
”Thế Tôn! Ngài Quán Thế Âm Bồ-tát do nhơn duyên gì mà tên là Quán Thế Âm?”.
(Xem: 9260)
Chắc hẳn quý vị đều nghĩ rằng sau khi đạt được Giác Ngộ thì Đức Phật nhất định phải có một cuộc sống thật thoải mái, có đúng thế hay chăng?
(Xem: 9775)
Đức Phật đã từng nói rằng: "Nầy các Tỳ Kheo, bất cứ ai muốn chăm sóc ta, người ấy phải muốn chăm sóc người bệnh"
(Xem: 9772)
Bái sám nhiều mà tội diệt phước sinh là không đúng về nhân quả.
(Xem: 8175)
Giáo pháp do Đức Phật dạy có rất nhiều nhưng trọng tâm vẫn là Bát Chánh đạo.
(Xem: 9119)
Từ khi trên quả đất này có sự sống, con người và muôn loài vật được tồn tại bằng luyến ái, tức là sự thương yêu,
(Xem: 22555)
Mặt trời hừng đông. Ngày mới lại đến. Buổi sáng bắt đầu cho một ngày mới của đời sống.
(Xem: 9383)
Thiền là một cách huấn luyện tâm, do đó, nếu chúng ta càng thực tập nhiều, càng thực tập đều đặn, chúng ta càng nhìn thấy sự tiến bộ của chúng ta.
(Xem: 17818)
Suy cho cùng, chính bạn chứ không phải ai khác là người chịu trách nhiệm cho việc bạn sử dụng số ngày còn lại của mình trong cuộc đời này ra sao.
(Xem: 10144)
Đức Phật dạy: “Nhứt thiết duy tâm tạo” tất cả đều do tâm tạo, “...Duy ngã độc tôn” “cái ta” là tối cao và quan trọng nhất, quyết định tất cả,
(Xem: 10688)
Đức Phật nêu lên Sự Thật Cao Quý Thứ Nhất và gọi Sự Thật này là dukkha. Thuật ngữ dukkha trong tiếng Pa-li thường được dịch là "khổ đau" (suffering)
(Xem: 10882)
Phát Bồ-đề tâm là phát sanh một ý nguyện đạt đến giác ngộ để cứu thoát tất cả chúng sanh.
(Xem: 9750)
Khi chưa biết tu, thân ta có khi làm việc thiện lành tốt đẹp, có lúc ta làm việc xấu ác gây nhiều tội lỗi, miệng có khi nói lời ngọt ngào dễ thương, có lúc nói
(Xem: 9380)
Nếu chúng ta phản ứng mạnh mẽ với tiếng ồn, nghĩa là chúng ta dấn thân vào cuộc chiến mà chúng ta không thể nào dành được phần thắng.
(Xem: 10369)
Trong nhiều pháp thoại, Thế Tôn thường sử dụng các hình ảnh trực quan để minh họa cho những giáo huấn của Ngài.
(Xem: 9466)
Nói đến tình thương, theo thế tục, chúng ta liên tưởng đến đối tượng của tình thương với những điều kiện (như một sự trao đổi tương xứng).
(Xem: 10649)
Đạo Phật dứt khoát không bao giờ chấp nhận việc mê tín Thần quyền, nhứt là những vấn đề tin nhảm nhí, theo một niềm tin mù quáng, không được điều động bởi lý trí.
(Xem: 9664)
Theo sự chỉ dạy của Thế Tôn, người Phật tử cũng có quyền làm giàu để nâng cao sự sống ngoài việc lo tròn trách nhiệm, bổn phận đối với gia đìnhxã hội.
(Xem: 15447)
Khi đến chùa bạn hãy nhớ những điều dưới đây không được nghĩ tới và cũng không được cầu khẩn mong muốn thành hiện thực nhé, những điều này là không nên.
(Xem: 8552)
Một vị lãnh đạo đất nước muốn giúp dân chúng an cư lạc nghiệp, có được cơm no áo ấm và sống an vui, hạnh phúc trên tinh thần vô ngã, vị tha phải là người có ...
(Xem: 11155)
Từ bisức mạnh thế nào, tới mức độ nào, và có thể chuyển hóa được thế gian hay nhân loại hay không
(Xem: 9315)
Người ta thường ngạc nhiên khi khám phá ra rằng thiền rất khó hành. Nhìn bề ngoài nó có vẻ là việc đơn giản, chỉ ngồi xuống chiếc gối nhỏ và theo dõi hơi thở.
(Xem: 8572)
Những ý niệm như vô ngại, đồng thời, đồng hiện, sẵn đủ, viên mãn… không chỉ có trong kinh Hoa Nghiêm mà có trong tất cả kinh điển, nhất là Đại thừa.
(Xem: 8823)
Thế giới loài vật cũng có sự sống sinh hoạt song hành với loài người nên cũng bị vô minh chi phối.
(Xem: 14622)
Chùa Khánh Anh - Paris Pháp Quốc
(Xem: 12740)
Tìm hiểu về quá trình tu tập của Sa-môn Cồ-đàm - nhất là khi từ bỏ vị thầy thứ hai (Uất-đầu-lam-phất) cùng hội chúng, Ngài đi đến Khổ hạnh lâm trải qua 6 năm khổ hạnh;
(Xem: 9656)
Có nhiều người thích trang sức bằng những viên ngọc quý. Tuy nhiên, viên ngọc đẹp đẽ, và to lớn nhất, là viên ngọc trong tâm.
(Xem: 9283)
Môi trường sống để tu học rất quan trọng cho tiến trình thành quả của người thực hành, nếu không nhận ra sự khác biệt trên giáo pháp Đức Thế Tôn dạy và...
(Xem: 9905)
Thí dụ về chiếc bè là một trong những ngụ ngôn và ẩn dụ, quen thuộcnổi tiếng nhất của Đức Phật.
(Xem: 14751)
Khi chim còn sống trên đời Chim ăn kiến nhỏ thấy thời khó chi, Nhưng khi chim bị chết đi Kiến thời ăn nó có gì khó đâu.
(Xem: 9121)
Mỗi khi phải đương đầu với nghịch cảnh hoặc các thứ chướng ngại, thì quý vị nên xem đấy như là một món quà thấm đượm từ biĐạo Pháp mang tặng mình,
(Xem: 10590)
Chúng ta ai cũng biết sân hậnđau khổ vì nó áp lực chúng ta phải giải tỏa những mối đe dọa bằng mọi giá.
(Xem: 10533)
Đức Phật thường ví mình như một vị y sĩ, và Đạo Pháp là phương thuốc Ngài dùng để chữa bệnh.
(Xem: 9634)
"Tu là quá trình: quán chiếu nội tâm, làm triệt tiêu bản ngãchuyển hóa nghiệp lực của mình” đây là ba điều kiện tiên quyết, cốt yếu và tinh túy nhất, trong phận sự người tu.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant