Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phúc Họa Do Ai

19 Tháng Mười Một 201507:57(Xem: 8060)
Phúc Họa Do Ai
Phúc Họa Do Ai
Phúc Họa Do Ai



Lịch sử nhân loại từ ngàn xưa cho đến nay chưa ai xác định rõ ràng trái đất và tất cả muôn loài, muôn vật có mặt tự bao giờ. Chúng ta chỉ biết khi con người dần dần phát triển thì bắt đầu dùng sức mạnh lấn áp và chiếm đoạt các tài nguyên thiên nhiên nhằm phục vụ cho đời sống hiện tại, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, hoặc tàn nhẫn hơn nhân danh một đấng tối cao để giết hại nhiều người; ai theo thì được bảo tồn mạng sống và hưởng vinh hoa phú quý bên đấng tối cao, ai không theo thì bị đoạ địa ngục.

Chính vì vậy mà một số người lợi dụng quyền năng đó để trục lợi cho riêng mình. Do đó có một người nói rằng “tôn giáo là thuốc phiện của nhân loại”, thế giới chiến tranh giết hại lẫn nhau cũng đã cho chúng ta thấy rõ ràng như vậy, biết bao cuộc tàn sát đẫm máu cũng vì nhân danh đấng tối cao.

Ngày nay, thế giới loài người nhờ nghiên cứu, tìm tòi, quán chiếu nên đã biết được không ai có quyền ban phước giáng hoạ mà chính con người tự tạo ra hoạ hay phúc. Đạo Phật không phải là tôn giáo như chúng ta thường gọi bây giờ mà là một con đường sáng để phá tan tối tăm, mờ mịt, là một phương pháp giáo dục nhân cách sống đạo đức, từ bitrí tuệ, giúp mọi người tự tin chính mình, làm chủ bản thân, không lệ thuộc vào một đấng thần linh thượng đế; có chăng chỉ là thượng đế của chính mình, mình làm lành được hưởng nhiều phước báo, mình làm ác phải chịu quả khổ đau từ sự thương yêu, luyến ái muốn bảo vệ quyền lợi riêng cho mình để hưởng thụ cảm giác khoái lạc.

Cha mẹthương yêu con nên phải lo lắng đủ cách để đảm bảo đời sống hiện tại và tương lai của con, nếu sau này con cái bất hiếu sẽ làm cha mẹ thất vọng và buồn khổ vô cùng. Ai cũng biết đã làm người khi lớn lên cũng cần tình yêu thương, dẫn đến lập gia đình và bắt đầu phải gánh lấy nhiều trách nhiệm nặng nề từ đó, nếu không có phước sẽ chịu nhiều phiền muộn, khổ đau.

Như chúng ta đã biết, khi có yêu thương thì có luyến ái muốn bảo vệ cho riêng mình, từ đó phát sinh lòng ham muốn và nó không giới hạn chỉ có tình yêu thương giữa hai người mà còn tham muốn nhiều thứ khác nữa.

Tất cả những thứ yêu thương, luyến ái đó đều phát xuất từ sự ham muốn khoái lạc cho chính mình. Hình như chúng ta chỉ yêu mến người nào đem lại hạnh phúc cho mình và sẽ oán hận người nào đem lại đau khổ cho bản thân.

Tại sao có người chết làm chúng ta buồn khổ, bi thương; có người chết nhưng chúng ta dửng dưng như không có chuyện gì? Người nào ta từng thương mến thì mình mới buồn khổ, sầu muộn; ngược lại thì mình không buồn, không khổ.

Cũng vậy, người không tham quyền lực thì đâu cần địa vị cao. Người không ham giàu có thì nghèo đâu phải là nỗi khổ. Người không yêu thương luyến ái quá mức thì xa nhau có gì phải tiếc nuối, nhớ nhung.

Người không có tâm ganh ghét, hận thù thì gần nhau có gì phải bực bội, phiền toái. Vì thấy thân này không thật, do nhân duyên hoà hợp giả có nên khi bị mạ nhục hoặc mất mát người thân không là nỗi khổ, niềm đau.

Luyến ái chấp thân này là thật nên phát sinh tình ái, từ đó bám víu, ràng buộc lẫn nhau như tình yêu nam nữ vợ chồng, cha mẹ với con cái, anh chị em cùng chung huyết thống. Các thứ tình yêu thương ấy dù có sâu sắc và đậm đà đến đâu vẫn không thể bền lâutồn tại mãi được. Sự sống chết, xa lìa là lẽ đương nhiên, ai cũng phải già-bệnh-chết, càng yêu thương luyến ái nhiều càng khổ đau nhiều chừng ấy, đó là một sự thật không thể chối cãi được.

Xin mọi người hãy nên quán chiếu, soi sáng để không bị luyến ái tham đắm ràng buộc. Nhưng làm người không yêu thương làm sao được, con người đâu phải là vật vô tri, vô giác như gỗ đá mà không có tình cảm. Đã có tình cảm thì phải có tình yêu lứa đôi và dẫn đến tình dụcthân thể mỗi người và thêm phần khởi lên sự ham muốn của ý thức.

Con người là một chúng hữu tình, tức là loài có tình cảm, vì có tình cảm nên con người mới luyến ái rồi sinh chấp thủ, từ đó phát sinh tư tưởng chiếm hữu muốn là của mình nên trở thành tình thương vị kỷ.

Nhưng đi xa hơn có một thứ tình thương không vị kỷ, không giới hạn ở người thân mà vượt lên trên tất cả. Chính tình thương này làm cho nhân loại không còn thấy ai là kẻ thù, chỉ có người chưa thông cảm với nhau mà thôi.

Bởi thấy biết sai lầm tưởng thân tâm này là thật nên si mê chấp ngã, thấy mình là ta, là của ta, do đó sinh luyến ái yêu thích bám giữ, vì vậy sinh ra tham-sân-si rồi thành hung thần phiền não mà không hay biết.

Một thứ tình thương đích thực thường cho đi nhiều hơn mà không cần suy xét, phân biệt; như có một kiếp Bồ tát thấy cọp mẹ đang đói khát nhiều ngày chuẩn bị ăn thịt cọp con, động lòng thương xót nên Người gieo mình xuống chỗ cọp mẹ nhằm làm thức ăn để cứu lấy cọp con.

Bồ tát bố thí thân mạnglòng bi mẫn, thương xót chúng sinh. Đây gọi là bố thí Ba la mật vì không còn thấy mình thí, kẻ thọ thí và vật mình thí. Đó mới chính là tình thương đích thực không còn phân biệt ta, người hay chúng sinh.

Đối với loài thú dữBồ tát vẫn sẵn sàng mở rộng lòng thương xót để chúng được sống còn mà nuôi con, do đó Bồ tát đối với con người nghĩa tình sâu sắc và mở rộng tấm lòng từ-bi-hỷ-xả nhiều hơn nữa.

Tình thương này vượt lên trên tất cả mọi thứ tình trên thế gian, nó cao quý và không thể nghĩ bàn. Chính tình thương này giúp cho nhân loại mở sáng mắt ra, bao nhiêu sai lầm từ nghìn xưa đến nay chỉ vì bảo vệ bản ngã độc tôncon người đành lòng tàn sát, giết hại lẫn nhau. Đến năm 1999, đại hội đồng Liên Hiệp Quốc đã sáng suốt công nhận đại lễ Phật đản với tên gọi “Vesak” là lễ hội văn hoá của loài người, mang tính quốc tế toàn cầu để tôn vinh các giá trị văn hoá, đạo đức, hiểu biếtyêu thương, cùng đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau trên tinh thần vô ngã, vị tha của đạo Phật.

Đạo Phật đã mở ra trang sử mới, vén lên bức màn vô minh phá tan bao si mê tối tăm từ nhận thức sai lầm của con người với tinh thần từ bitrí tuệ để chuyển hoá các phiền muộn, khổ đau do si mê chấp ngã mà ra.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 593)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 775)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1099)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1268)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 996)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1337)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 785)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 758)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 806)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 821)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 794)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 780)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 937)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 824)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 980)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 996)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 921)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 922)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 849)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 1004)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 945)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 889)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 985)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 898)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 841)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 949)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 875)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1135)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 903)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 1006)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1144)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1607)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1154)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1251)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1104)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 968)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 909)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 951)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 793)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1475)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1352)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1321)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1265)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1368)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1324)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1468)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1346)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1198)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1257)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1316)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant