Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bổn Phận Của Người Đệ Tử Phật

31 Tháng Mười Hai 201515:39(Xem: 10104)
Bổn Phận Của Người Đệ Tử Phật

BỔN PHẬN CỦA NGƯỜI ĐỆ TỬ PHẬT

Thánh Tri

Bổn Phận Của Người Đệ Tử Phật

Từ khi thái tử Tất Đạt Đa giác ngộ thành Phật dưới gốc cây Bồ Đề, lăn chuyển bánh xe chánh pháp, chư tổ sư hoằng dương truyền xuống từng đời trải bao thế kỷ, vượt bao thế hệ, làm lợi ích cho vô số chúng sanh, xóa mây mù tà kiến, hiển bày trí tuệ sáng ngời, cho đến ngày nay đạo Phật vẫn còn sáng chói như mặt trời giữa trưa. Thâm ân của Phật, Tổ và bao nhiêu người tăng lẫn tục xưa nay đã chịu bao khó nhọc, đổ bao xương máu để duy trì mạng mạch của Phật Pháp, thật cao cả vĩ đại như núi tuyết, khó mong đền đáp. Người xuất gia thì chăm lo việc học đạo, tham thiền (tu đạo), và truyền bá chánh pháp. Người tại gia thì chuyên lo việc thân cận học hỏi, phụng sự cúng dường, giúp đỡ các vị xuất gia hoằng Phật Pháp, và làm tròn Tam Quy Ngũ Giới, mang lại lợi ích cho mình và người, gieo trồng căn lành và ruộng phước cho đời hiện tạivị lai. Ai cũng hiểu rõ và làm đúng bổn phận mình, thật quý thay! Song, ở thế kỷ 21, pháp thâm sâu vi diệu của đức Phật vẫn còn đó, mà có mấy người lãnh hội được và tu cho đúng!? Do vậy đó mới là chỗ hở yếu làm cho ngoại đạo có thể xâm nhập, lay chuyển, và cải đạo. Buồn thay cho kiếp vận của Phật Giáo! Tiếc thay cho những người không đủ nhân duyên!

 

Song, có buồn có tiếc cũng không làm gì được bởi mỗi người nhân duyên nghiệp quả khác nhau. Đến với Phật Pháp cũng vì chữ duyên, rời Phật pháp cũng là một chữ duyên. Do vậy Kinh Lăng Nghiêm nói “Các pháp từ xưa đến nay, đều theo nhân duyên hư vọng hòa hợp mà sinh, do nhân duyên hư vọng biệt ly mà diệt.” Nên một trong ba việc mà đức Phật làm không được (tam bất năng) là “độ chúng sanh không duyên”. Đó thì càng chứng tỏ lời Phật dạy từ hơn hai ngàn năm trước là đúng.

 

Chỉ trách lấy mình lơ là không tinh tấn tu hành để Minh Tâm Kiến Tánh như Phật và chư Tổ thuở xưa. Đã còn là người trong đường mê sanh tử thì làm sao mà đủ sức trí tuệđức hạnh để khai mở đạo nhãn cho người khác được. Thế thì lực bất tùng tâm, muốn đem ánh sáng trí tuệ chiếu tan màng vô minh đen tối của chúng sanh, mà chính mình chưa sáng đạo thì không thể làm được vậy. Như Kinh Duy Ma Cật nói: “Chỗ sanh chẳng bị trói buộc mới có thể thuyết pháp mở trói cho chúng sanh. Như lời Phật thuyết: Nếu tự mình bị trói mà mở trói được cho người thì chẳng có chỗ đúng. Nếu tự mình chẳng bị trói, thì mới có thể mở trói cho người. Vì thế Bồ Tát chẳng nên có sự trói buộc.” Do vậy mà chính mình phải nỗ lực tu đạo để thấy đạo, một khi đã thông suốt thì mới có thể tùy duyêntùy cơgiáo hóa khắp chúng sanh. Đó là bổn phận và trách nhiệm chung của những người Phật Tửxuất gia hay tại gia.

 

Muốn cùng nhau lăn chuyển bánh xe chánh pháp của Phật, người đệ tử Phật phải có Tu Đức, nghĩa là mỗi người Phật Tử bất luận tại gia hay xuất gia đều phải có sự thực hànháp dụng Phật Pháp vào đời sống hằng ngày, hơn là tin và nói suông. Xuất gia thì nỗ lực học đạo tham thiền, tầm cầu minh sư khai mở đạo nhãn, nhiếp tâm nơi chỗ một niệm chưa sanh như mèo rình chuột, quyết làm tròn chí nguyện xuất gia ban đầu, tức thượng cầu giác ngộ, dưới hóa độ chúng sanh (Thượng Cầu Hạ Hóa), lấy giác ngộ giải thoát làm mục tiêusự nghiệp duy nhứt của đời mình (Duy Tuệ Thị Nghiệp). Tại gia thì chăm lo việc làm tròn bổn phận cho gia đình, xã hội, và bổn phận của người Phật Tử tức là một đời Quy Y Phật, Pháp, Tăng Tam Bảo, quyết chẳng theo thầy tà bạn ác, bỏ ác làm lành giữ tâm trong sạch, thân cận chư tăng để học hỏi và trợ giúp các ngài tu đạo, hoằng pháp, lợi sinh. Mỗi bên ai nấy đều tròn bổn phận tu đức, hổ trợ lẫn nhau cùng nhau lang tỏa giới đức, thì mùi hương của đức hạnh tự tỏa khắp muôn phương, những ngọn đèn trí tuệ tự sẽ thắp sáng khắp những nẽo đường đen tối, khiến chúng sanh có chỗ nương về, và rồi chính họ cũng tự thắp sáng ngọn đèn trí tuệ của chính họ, được an vui giải thoát thật sự.

 

Huyền diệu thay! Chỉ cần ai nấy giữ tròn bổn phận của chính mình và thực hành Pháp Bảo (tức tu Giới-Định-Tuệ) thì tự nhiên góp phần lăng chuyển bánh xe chánh pháp làm lợi ích không những cho chính mình mà còn muôn loài chúng sanh nữa! Chứ đâu cần phải làm những điều gì kỳ hoặc khác!

 

Khi đã có tu đức thì ai cũng trở nên dễ thương, hiền hòa, từ tốn, và kính trọng lẫn nhau. Do vậy một tăng đoàn sẽ có hòa hợp, và hàng bạch gia cũng hòa hợp. Một khi có hòa hợp chúng giữa tăng chúng, giữa hàng tại gia, và giữa tăng lẫn tục thì mới có sự đoàn kết, nên không còn tình trạng “nhất tăng nhất tự” nữa; ngược lại sẽ là “thiên tăng nhất tự” hay một Đại Tùng Lâm Thạch Trụ, như đạo tràng của chư Tổ thuở trước đều dung chứa cả ngàn tăng chúng theo tu học, đào tạo ra không biết bao nhiêu là người giác ngộ lỗi lạc, ai cũng là Phật của một góc trời, làm cho Phật Pháp vững mạnh và vang lừng khắp nơi, cũng như vô số chúng sanh được nương nhờ ơn pháp nhũ. Có sự hòa hợp và đoàn kết nên làm gì cũng thành công, đặc biệt là việc hoằng dương và duy trì huyết mạch của Phật Pháp. Thiếu hòa hợp và đoàn kết thì sẽ thất bại và khiếm khuyết về mọi mặt. Do vậy người xưa nói “hổ ly sơn hổ bại, tăng ly chúng tăng tàn.”

 

Phật ra đời khó khặp như hoa Ưu Đàm quý hiếm, Pháp của Phật lại càng khó được nghe. Nay được thân người đã là việc hi hữu, lại được nghe Phật Pháp thì quả thật là người có đại phước đức, nhân lành nhiều đời đã từng gieo trồng rất sâu, nay lại hội đủ nhân duyên mà được quả nghiệp làm người lại được nghe Phật Pháp thì thật khôngtốt đẹp hơn! Vậy thì phải nên trân trọng cái thân người và quý kính Phật Pháp, đừng bỏ lỡ cơ hội vạn đời khó khặp nầy!

 

Trân trọng thân người là biết cách sống đúng với năm nhân tính của một con người; một là biết tôn trọng mạng sống của mình và người; hai là tạo ra nguồn sống chân chính để nuôi thân bằng đôi bàn tay, khối óc và con tim thương người; ba là tạo ra hạnh phúc cùng nhau bằng lý trítình thương đem lại những đều tốt đẹp cho đôi bên (người tại gia); bốn là tập nói những lời dễ thương tức là biết dùng lời nói nhẹ nhàng, êm ái, thân thương, đoàn kết và xây dựng; và năm là tập giữ gìn sự định tĩnh và trong sáng của tâm hồn bằng cách không đam mê những thứ có tính cách kích thích làm đầu óc mê mờ như rượu bia, thuốc lá, cờ bạc ma túy, xì ke và v.v… Đó chính là năm nhân tính căn bản của một con người lương thiệnđạo đức.  

 

Một khi đã là người lương thiệnđạo đức rồi, thì tiếng thêm một bước nữa là biết quý kính Phật Pháp. Quý kính Phật Pháp thì dành thì giờ rỗi rãnh tìm hiểu Phật Pháp bằng cách đọc kinh sách của chư Tổ đi trước và tầm cầu thiện tri thức trong hiện tại với tâm nhiệt quyết và chí thành, quyết nắm cho được đầu mối vào cửa đạo mới thôi, ngày nào chưa làm được thì ăn ngủ không yên. Khi hiểu được lời dạy của Phật, Tổ và thiện tri thức rồi thì phải thực hành, chứ đừng có học một bụng cho nhiều tri giải rồi đi khắp đó đây bàn luận hơn thua cho qua ngày tháng, rốt cuộc uổng công vô ích, bỏ đi cả một đời học Phật và hành đạo. Khi già yếu chết đi vẫn là người chưa rõ đầu mối sanh tử, nên phải tiếp tục theo nghiệp mà thọ sanh đời khác, không biết có còn được thân người và gặp được Phật pháp nữa không. 

 

Có học và hành Phật Pháp rồi thì mới mang lại những điều lợi ích chân thật cho chính mình, gia đình, đất nước xã hội, và cả thế giới này. Và khi được lợi lạc an vui bằng cách sống đúng theo lời dạy của Phật, Tổ và các vị thiện tri thức thì tự nhiên mình sẽ có một niềm tin vững mạnh chân chính đối với Tam Bảo: Phật, Pháp, Tăng. Mình nhờ ân ngôi Tam Bảo mà được biết cách sống tốt đẹp và sống một đời sống bình an lợi lạc. Nhờ theo lời dạy của Tam Bảo mà mình bỏ ác làm lành giữ tâm trong sạch nên sống chết vẫn bình an, dù phải chết theo luật Vô Thường nhưng biết rằng trọn cả một đời mình bỏ ác làm lành giữ tâm trong sạch chắc chắn sẽ tái sanh về cõi lành nên được tâm hoan hỉ tràng đầy pháp lạc mà ra đi. Nếu người Phật tửtại gia hay xuất gia làm được những điều như thế ắt tâm sẽ vững chãi đối với Phật, Pháp, Tăng nên sẽ không bị tà thuyếtngoại đạo lay chuyển đến nổi phải cải đạo.

 

Phật là giác mà không mê. Pháp là chánh mà không tà. Tăng là tịnh mà không cấu. Quy Y Tam Bảo chân chính thì trở về nương tựa với Giác, Chánh, Tịnh nơi tự Tâm mình. Một khi đã trở về với Tâm Giác Chánh Tịnh thì được giải thoát khỏi tất cả gông cùm của vọng thức phiền não, đó gọi là ra khỏi nhà Phiền Não (Xuất Phiền Não Gia), và giải thoát khỏi vòng luân hồi sanh tử trong ba cõi được vô sanh niết bàn, đó gọi là ra khỏi nhà Tam Giới (Xuất Tam Giới Gia). Dẫu hiện tại chưa thể làm được đều ấy, nhưng ít ra nếu mình thật tâm Quy Y Tam Bảo thì mình cũng bớt cái ngu si mê muội, bớt cái tà kiến sai trái, gạn lọc bớt những cấu bẩn của thân tâm. Có như vậy cũng có thể mang lại đời sống tốt đẹpan ổn cho chính mình, gia đình mình, đất nước và thế giới. Quy y Tam Bảo được tốt đẹp như thế sao còn tìm kiếm và nghe theo những thứ tà thuyết si mê sai lầm, trái nhân quả của ngoại đạo được? Nếu sống một cách si mê lầm lạc, trái nhân quả thì chỉ mang lại đời sống khổ đau cho chính mình và người thêm thôi! Không được lợi ích gì cả! Phải suy xét cho kỹ càng về điều này!

 

Người thời nay học sai, hiểu sai và thực hành sai giáo pháp của Phật, cũng như học nhiều mà không thực hành chỉ nói suông nên không đủ đạo lực để cứu lấy chính mình và phá trừ ngoại đạo tà kiến, nên mới khiến cho quần chúng, Phật Tử sanh nghi ngờ nơi Tam Bảo, mới dễ bị ngoại đạo thuyết phục bằng nhiều cách như tiền tài danh lợi, chạy theo tà kiến si mê lầm lạc trái nhân trái quả của họ. Thật đáng buồn thay! Đáng tiếc thay!

 

Do vậy bổn phận của người đệ tử Phật là phải học cho kỹ về lời dạy của đức Phật, chư Tổ giác ngộ đi trước, và thiện tri thức cùng minh sư trong hiện tại, và y như pháp mà thực hành. Đệ tử tại gia hay xuất gia ai ai cũng làm tròn bổn phận của mình, hỗ trợ nhau, làm thiện tri thức của nhau trên con đường thật tu thật ngộ của Phật. Có như vậy thì đức hạnh của mỗi người tự lan tỏa và chang hòa khắp muôn phương, chúng sanh đều được nhờ nương lợi lạc, vững tâm, chánh tínthành kính đối với Tam Bảo, làm đẹp cho đời cho đạo trong hiện tại và mãi tận đời vị lai. Mong thay! Rất mong lắm thay!

 

Đạo vốn không lời

Cũng chẳng phải không lời

Đạo không thể chỉ

Cũng chẳng phải không thể chỉ

Cần phải tự khế hội

Bằng con đường Đạo Học

Chẳng phải Triết Học suông

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2219)
Tu tâmtìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm.
(Xem: 2655)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2521)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2340)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2653)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2431)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3245)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2313)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2408)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2531)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2465)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2534)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2191)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2578)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3044)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2642)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2702)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 2982)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2551)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2583)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4079)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2767)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3054)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3299)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2285)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2498)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2799)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 2993)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2865)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2603)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2626)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3186)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2594)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2270)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2382)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2472)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2594)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2679)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2741)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3262)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2555)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2128)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2593)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2045)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2816)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2898)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2935)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2700)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
(Xem: 2507)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2775)
Đời sống của con người thọ mạng nhiều lắm chỉ trên dưới trăm năm. Trong chuỗi thời gian này con người hưởng hạnh phúc không bao nhiêu,
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant