Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phật độ người “Hữu duyên” - rốt cuộc là độ như thế nào?

01 Tháng Năm 201608:28(Xem: 9118)
Phật độ người “Hữu duyên” - rốt cuộc là độ như thế nào?

Phật độ người “Hữu duyên” - rốt cuộc là độ như thế nào?

Thích Tánh Tuệ

Phật độ người


Mỗi người, ở giữa sóng trần cuồn cuộn, đều là những con thuyền có hành trình xa thẳm, gặp được Phật Pháp thì thật đáng trân quý biết bao. Có câu rằng: “Phật độ người hữu duyên”. Vậy rốt cuộc độ người “hữu duyên” là độ người như thế nào?

Một vị tín đồ thành kínhsùng bái đạo đang lúc gặp phải một trận lũ lụt, bèn leo lên trên nóc nhà lánh nạn.

Tuy nhiên đại hồng thủy cứ dần dâng cao mênh mông, xem chừng nước đã muốn ngập chạm đến bàn chân, tín đồ vội vàng hướng Phật cầu cứu rằng: “Phật Tổ đại từ đại bi xin hãy nhanh đến cứu con đi ạ!”.

Không lâu sau một chiếc thuyền độc mộc lướt tới, người trên thuyền muốn cứu tín đồ, nhưng anh ta lại nói: “Ta không gọi ngươi đến cứu, Phật Tổ sẽ tới cứu ta”

Và người kia lại một mình với chiếc thuyền gỗ rời đi. Nước lớn vẫn đang không ngừng tiếp tục dâng cao, rất nhanh đã cao tới lưng chừng đùi của vị tín đồ. Tín đồ mười phần lo lắng, lập tức hướng về Đức Phậtphát tâm cầu cứu.

Khi này một chiếc thuyền khác lại chèo tới, người trên thuyền hướng dẫn tín đồ những yêu cầu sao cho lên thuyền an toàn, nhưng anh ta không những đã cự tuyệt, lại còn nói rằng: “Ta không thích chiếc thuyền này, Phật Tổ sẽ đến cứu ta”.

Và rồi chiếc thuyền kia lại đơn độc rời đi bỏ lại tín đồ phía xa xa.

Chẳng mấy chốc nước đã dâng cao ngập đến ngực, tín đồ tiếp tục hướng về Phật Tổ khẩn cầu bật ra thành tiếng trong lo lắng. Nước lũ thuận theo hồng thủy vẫn không ngừng dâng cao, tín đồ thở dài trong vô vọng.

Ngay lúc ấy, một vị thiền sư với dáng chèo thuyền cấp bách vội đến cứu anh ta. Vị tín đồ được cứu nói với thiền sư trong tâm trạng giận dỗi đầy oán trách: “Ta đối với Đức Phật đã thành kính như thế, nhưng Ngài lại không tới cứu giúp khi ta đang gặp nạn”.
Vị thiền sư trầm tư nói: “Ngươi thật sự đã trách oan Đức Phật rồi. Ngài đã mấy lần hóa tác cho thuyền đến cứu ngươi, ngươi lại chưa hài lòng hết chê thế này thế kia, rồi bỏ qua hết lần này đến lần khác, xem ra Phật và ngươi không có duyên rồi”.

***

Đạo Phật thuyết rằng: “Độ người hữu duyên”, Phật từ bi vô ngã, đã cho thuyền lành vượt cơn lũ lớn, đã vì phật tính của tất cả chúng sinhbình đẳng mà chỉ thị cụ thể cho hết thảy. Căn cứ vào căn cơ ngộ tính khác nhau của chúng sinh, mà khai mở hết thảy các phương tiện rộng lớn trong thế gian.

Nguyên cơ giảng Pháp, là để dần hướng người ta sang đường thiện. Người thành tâm kiên chí, noi theo chỉ thị của Đức Phật dăn dạy sẽ dần thoát ly khỏi bể khổ. Không cố gắng & thành tâm thì vĩnh viễn ở lại trong lục đạo luân hồi.

Cho nên nói: Điều gọi là Phật độ ấy kỳ thực là những gì chúng sinh chiểu theo Phật Pháp chỉ thị để tự ngộ, tự độ, tự cứu lấy mình mà thôi.

- Có một vị tín đồ nọ đứng dưới mái hiên tránh mưa, nhìn thấy một vị thiền sư cầm chiếc ô đi ngang qua, liền gọi lớn: “Thiền sư, xin người hãy phổ độ chúng sinh ạ! Cho tôi đi nhờ một đoạn có được không?”.

Vị Thiền sư thấy vậy nói: “Ta đang đi ở trong mưa, còn ngươi ở dưới mái hiên, dưới mái hiên không hề mưa ướt, ngươi không cần ta độ giúp?”.

Tín đồ bèn lập tức bước ra khỏi mái hiên, đứng ngay dưới trời mưa và nói: “Hiện tại tôi cũng ở trong mưa, nên giúp đỡ tôi được chưa?”.

Vị Thiền sư: “Người cũng ở dưới mưa, ta cũng ở dưới mưa, ta không bị mưa thấm ướt, bởi vì có chiếc ô; người bị mưa thấm ướt, vì không có chiếc ô. Cho nên không phải ta độ được ngươi, mà là chiếc ô độ giúp ta. Người muốn được độ, không cần tìm ta, tự đi mà tìm một chiếc ô!”.

- Trong chuyện này vị thiền sư không bằng lòng chia chung ô, đây là đại từ bi của thiền sư. Con người muốn được cứu độ không thể mong cầu người khác chỉ bảocần phải dựa vào chính mình.

Tự mình có chiếc ô (Có Pháp tu), mới có thể khiến mưa không thấm ướt, đạo lý cũng như vậy, tự mình có chân như Phật tính, tự nhiên sẽ như ở phàm trần mà không có chỗ nào để bụi nhơ bám lên thân được!

Namo Buddhaya

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 593)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 775)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1099)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1268)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 996)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1337)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 785)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 758)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 806)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 821)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 794)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 780)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 937)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 824)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 980)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 996)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 921)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 922)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 849)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 1004)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 945)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 889)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 985)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 898)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 841)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 949)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 875)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1135)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 903)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 1006)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1144)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1607)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1154)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1251)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1104)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 968)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 909)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 951)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 793)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1475)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1352)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1321)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1265)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1368)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1324)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1468)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1346)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1198)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1257)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1316)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant