Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Cây Niềm Tin, Khởi Động Cơ, Khuyến Khích Tự Tâm

11 Tháng Sáu 201611:02(Xem: 8109)
Cây Niềm Tin, Khởi Động Cơ, Khuyến Khích Tự Tâm

CÂY NIỀM TIN, KHỞI ĐỘNG CƠ, KHUYẾN KHÍCH TỰ TÂM

Đức Đạt Lai Lạt Ma

La Sơn Phúc Cường

Cây Niềm Tin, Khởi Động Cơ, Khuyến Khích Tự Tâm


Tsuglagkhang, chính điện với hơn 10 ngàn thính chúng tham dự buổi giảng pháp trong ba ngày của đức Đạt lai Lạt ma. Hơn 2500 học sinh tiểu học và Trung học của TCVs và các học sinh lớp 10 tới lớp 12 tại Gopalpur, Suja, Selakui và Chauntra. Ngoài ra còn có 600 sinh viên đại học, xấp xỉ hơn 2 ngàn thính chúng quôc tế từ 66 nước và 5 ngàn thành viên người Tạng khác.

Ngài cảm thấy hoan hỷ khi sau nhiều thế kỷ, biện luận, triết học là những môn học vẫn được trì giữ tại các tự viện, và được các học sinh, sinh viên và hàng tại gia thực hành. Các môn học như toán học ít có ảnh hưởng tới sự phát triển nội tâm, trong khi nếu chúng ta tu học những lời đức Phật dạy, chúng ta chắc chắn sẽ có sự chuyển hóa dòng tâm mình. Ngài dạy rằng đã từng có những bài tập biện luận trong các trường học cho học sinh, sinh viên trong những ngày đầu rời xa đất nước, nhưng sau đó các trường đã không duy trì được. Những năm gần đây truyền thống này đang dần được phục hồi.

con người, chúng ta có một bộ não diệu kỳ và một trí tuệ giúp ta khám phá và thấu hiểu về sự vận hành của vạn vật. Nhưng ngài dạy rằng, “Điều quan trọng là phải biết sử dụng trí tuệ của mình cho những mục đích thiện lành. Chúng ta có hơn 100 tập Kangyur và hơn 220 tập Tengyur. Kangyur là những lời dạy của đức Phậtchúng ta thấy được sự trình bày các vấn đề một cách rất lô-gic, chặt chẽ với ý nghĩa rõ ràng. Trên hết đức Phật là bậc thầy tâm linh duy nhất khích lệ các đệ tử của mình khảo sát, suy xét những lời dạy của ngài hơn là chỉ chấp nhận trên lý nghĩa bề mặt.

Tiếp đến các luận sư như Trần NaPháp Xứng luận giảng về lô-gic và Nhận thức luận. Các kinh văn đã được chuyển dịch sang tiếng Tạng và ngày nay vẫn được tu học, tranh biện, trong khi đó nhiều bộ luận chưa được dịch sáng tiếng Hán. Điều quan trọng nhất là phải đọc, thấu hiểu lý nghĩa của kinh băn. Cũng giống như chẳng có ý nghĩa gì khi có một cuốn sách nấu ăn tại nhà nhưng chỉ giữ sách trên giá sách, sẽ chẳng có ý nghĩa gì nếu chỉ kính lễ các kinh văn này khi bày biện trên chính điện mà không nỗ lực tu học để thấu hiểu. 

Ngày nay các nguyên tắc đạo đức cơ bản dường như rất thiếu vắng trong xã hội, điều này ảnh hưởng tiêu cực tới mỗi cá nhân, gia đìnhquốc gia. Ngài lưu ý rằng thông điệp bản chất của tất cả truyền thống tôn giáophụng sự tha nhân, dù cho là Công giáo, Islam, Hindu hay Do thái giáo, mỗi tôn giáo đều có những hành giả mẫu mực và trung thực. Một trái tim nồng ấm không chỉ tốt lành cho sức khỏe mà còn tốt lành cho cả xã hội nữa. Rất cần thiết phải thấu hiểu các lợi ích của những nguyên lý đạo đứctác hại của một đời sống thiếu kỷ luật. Phật giáo với cái nhìn hiện thực rất gần với khoa học và giúp mang lại các giải pháp đối trị những phiền não, có lợi ích to lớn cho thế giới.

Nhiều phát minh khoa học đã chỉ ra rằng bản chất căn bản của con ngườitừ bi, dựa trên đó chúng tahy vọng về một thế giới tốt đẹp hơn. Chúng ta có thể thay đổi bản thân và có thể hy vọng tạo ra một thế giới nhân từ hơn. Nhưng cũng rất cần một cách tiếp cận toàn diện và phổ quát hơn để giáo dục cho con người về đức hạnh, trái tim chứ không chỉ thuần túytri thức. Đây vẫn là những năm đầu của thế kỷ 21, nhưng tôi tin tưởng rằng nếu chúng ta nỗ lực ngay từ lúc này chúng ta có thể mong chờ những thay đổi tích cực trên thế giới trong tương lại. Tôi thấy được khích lệ rất nhiều khi nghe trên BBC rằng có một số lượng lớn con người ngày nay đang xem mình là công dân toàn cầu.”

Ngài nhắc tới thời khắc đức Phật ngay sau khi giác ngộ, ngài đã băn khoăn không có một ai sẽ thấu hiểu những giáo pháp thâm diệulợi lạc của ngài. Nhưng sau khi chư thiên thỉnh cầu ngài truyền trao giáo pháp, ngài đã truyền trao cho năm anh em ông Kiều Trần Như và bốn người bạn, luận giảng giáo pháp Tứ Diệu Đế cho họ. Ngài đã chỉ ra rằng những nhân của khổ đau có thể tận trừ và nếu mỗi người có thể tận trừ được các nhân này thì họ sẽ có hạnh phúc và niềm an lạc mãi mãi. Ngài dạy rằng:

“Nếu quý vị không muốn khổ đau thì quý vị phải tận trừ những nhân gây nên chúng. Lý do chính là nghiệp và các phiền não, và căn nguyên nằm ở vô minh. Bản chất của tâm là quang minhtỉnh giác. Vô minh không phải là bản chất của tâm; nó mong manh, tạm bợ và có thể bị tận trừ. Hoàn toànthể diệt trừ được các phiền não trong tâm mỗi người và để thành tựu được, mỗi người phải biết rèn luyện dựa trên tam học Giới-định-tuệ.


Ngài nhắc tới 3 lần đức Phật chuyển Pháp luân. Ngài chỉ ra rằng trong lần chuyển Pháp luân thứ nhất, ngài đã truyền giáo pháp Tứ Diệu đế, trong lần thứ hai, ngài truyền trao các giáo pháp Trí tuệ Bát nhã, làm sáng tỏ bản chất thực của Diệt đế. Lần chuyển pháp luân thứ ba, ngài dạy sâu rộng hơn về Đạo đếbản chất của tâm.

Liên quan tới Cây Niềm tin, khởi phát tự tâm, bản kinh văn mà ngài sẽ truyền dạy, ngài dạy rằng bản kinh văn này bắt nguồn từ 16 Giọt Kadam, một giáo pháp đặc biệt bắt đầu từ ngài Atisha, Dromtonpa, Ngok Legpai Sherab, Nagtso Lotsawa and Geshe Kawa at Yerpa Lhari Nyingpo. Ngài Ngok đã thỉnh cầu Atisha truyền dạy về các đời trước của ngài Dromtonpa.

Ngài đã thụ nhận giáo pháp này từ Ling Rinpoche tại Tây Tạng và khi ngài thỉnh cầu Trijang Rinpoche truyền trao một lần nữa, Rinpoche đã nhập thất trước khi truyền pháp cho ngài. Bản kinh văn này được tụng đọc, truyền khẩu trong phần quán đỉnh. Đối với ngài, khi đã nhận giáo pháp ngài luôn bước vào nhập thất. Có năm đề mục được luận giảng trong bản kinh văn: Quy y nơi bậc thầy; quán tưởng tự thân là bản tôn; trì tụng chân ngôn; trưởng dưỡng Bồ đề tâmtrí tuệ tính không. Ngài cũng nhắc tới việc khi truyền trao quán đỉnh tại Nam Ấn vào mùa đông năm ngoái ở cuối giai đoạn giáo pháp Các Giai tầng Giác ngộ, ngài thấy cần thiết truyền trao bộ kinh văn vào thời điểm này.

Tiếp đến ngài đã tụng đọc và khẩu truyền các câu kệ trong bộ kinh văn. Sau khi quan sát tất cả thính chúng đều có bản copy bộ kinh văn, ngài đã khích lệ thính chúng hãy đọc kỹ bản kinh văn một lần nữa, suy tư về lý nghĩa mà ngài đã luận giảng và hãy cùng nhau thảo luận.

Ngày giảng pháp thứ hai. Ngài trích dẫn câu kệ tổng quát tất thảy giáo pháp của đức Phật:

Không làm những điều ác,
Làm tất thảy điều lành,
Hãy điều phục tâm mình.
Đó là lời Phật dạy.

Ngài dạy rằng các hành động bất thiện trên thực tế thuộc về phạm vi tương đối chứ không phải tuyệt đối. Ngài nhắc lại câu chuyện về vị thuyền trường, một trong các đời trước đây của đức Phật, đã phát hiện ra một kẻ tướng cướp lập kế hoạch giết hại 500 thương nhân trên thuyền của ông. Ông đã quyết rằng nếu ông giết người lầm lạc này thì không chỉ cứu sống được 499 người mà bản thân mình còn bảo vệ hắn khỏi kết quả kinh khủng của hành động sẽ giết hại họ. Trong trường hợp này, mặc dù đã lấy đi mang sống của một người nhưng có những kết quả tiêu cực, các hành động đó cũng tích lũy được công đức to lớn. Ngài cũng dạy thêm rằng: là Phật tử chúng ta nói rằng chúng ta không được làm những việc bất thiện bởi khi ấy ta sẽ nhận lấy quả là khổ đau, không chỉ đơn giảnđức Phật dạy như vậy là chúng ta không làm.

Với câu kệ kế tiếp, Hãy điều phục tâm mình. Ngài đặt câu hỏi, Tâm thức là gì? Và nhắc lại rằng có nhiều nhà khoa học đưa ra quan điểm cho rằng, tâm không là gì khác ngoài một chức năng của não. Các sinh viên lớp trẻ tuổi từ Upper TCV đã tham gia vào nhóm tranh biện về màu sắc. Tiếp theo nhóm nhiều tuổi hơn tranh biện về nhân và duyên. Ngài đã luận giải rằng, học hỏi về hai chân lý tạo nên một sự khác biệt nơi mỗi người và ngài đã luận giải về lòng trân trọng, tri ân tới lòng tốt của hết thảy chúng sinh. Không chỉ chúng ta thành tựu giác ngộ là nương vào lòng từ của các chúng sinh khác, mà tất cả mọi điều ta ân hưởng trong đời sống hiện giờ đều phụ thuộc vào lòng từ của chúng sinh. Ngài dạy rằng khi đã có được sự thấu hiểu đó sẽ giúp mỗi hành động, việc làm của ta đều hướng tới phụng sự mục đích của Pháp.

Một thành viên khác đã đứng lên tri ân ngài giúp họ hiểu được về giá trị nền văn hóa của dân tộc mình. Tiếp đến, thay mặt các sinh viên trong quá khứ, hiện tại và tương lai, họ cúng dường ngài bức thanka đức Phật Dược Sư.

Trở lại mối quan hệ giữa bộ não và dòng tâm thức, ngài đã dạy rằng vào cuối thế kỷ 20, một số nhà khoa học bắt đầu đặt vấn đề về dòng thức vi tế sẽ không thể tồn tại nếu tách rời bộ não. Ngài nhắc lại một câu hỏi ngài đã đặt lên cho các nhà khoa học, “Nếu tất cả các điều kiện để nhận thức diễn ra đều được đặt đúng vị trí, buồng trứng, trứng và tinh dịch đều trong điều kiện lý tưởng vậy thì thức có diễn ra một cách tự nhiên không?”. Câu trả lời của các nhà khoa học là không. Ngài đã luận giải rằng, các điều kiện xa hơn của thức có thể không hiện diện.

 Nhắc là quan kiến Trung đạo rằng, bản ngã thuần túy chỉ là định danh trên nền tảng hợp uẩn thân tâm, ngài đưa ra nhận định rằng: “Tại một hội đàm đa tôn giáo tổ chức tại Amritsar, một bậc thầy hàng đầu đạo Do thái từ Ajmer cho rằng tất cả tôn giáo đều đề cập tới ba vấn đề: cái tôi hay bản ngã là gì? Nó có điểm khởi đầu không? Và nó có điểm kết thúc không?

Xác quyết rằng không có một bản ngã tồn tại một cách cố hữu nào, Phật giáo cho rằng bản ngã phụ thuộc vào hợp thể thân tâm. Lý do là như vậy và bởi vì tâm không có điểm bắt đầu, nên bản ngã cũng không có điểm bắt đầu. Dù cho có điểm kết thúc hay là không thì phần lớn quan điểm của các trường phái Phật giáo đều cho là không.”

Trong khi nghỉ giữa các thời khóa, các sinh viên đã đặt lên ngài câu hỏi. Với những người đặt câu hỏi rằng quy y Tam bảo có phải là tiêu chuẩn duy nhất đối với một Phật tử, ngài trả lời rằng chấp nhận bốn Pháp ấn:

Tất cả những pháp duyên sinh đều vô thường
Tất cả các pháp nhiễm ô, bản chất đều khổ đau
Tất cả các pháp đều là tính khôngvô ngã.
Niết bàn là sự an bình thực sự.

Đây cũng là một thước đo khác để xác quyết có phải theo đạo Phật hay không.

Ngài chia sẻ với một sinh viên vừa đặt câu hỏi về bốn trường phái tư tưởng Phật giáo khi đức Phật truyền trao giáo pháp Tứ diệu đế, ngài có nhắc tới Tính không, nhưng Tính không được luận giảng sâu sắc hơn trong giáo pháp Trí tuệ Bát nhã trong lần chuyển pháp luân thứ hai. Sau đó, các đạo sư Nalanda đã luận giảng về Tính không thậm chí còn chi tiết hơn.

Tán thán một người sinh viên đã gửi lời tri ân ngài trước lời dạy thâm sâu vào năm ngoái, ngài dạy rằng bản thân mình thiền định hàng ngày về cái chết và vô thường, và phát hùng tâm giải thoát khỏi những phiền não khổ đau. Ngài cũng dạy về việc cần thiết phải trưởng dưỡng các phẩm chất thông tuệ, khiêm cung và nhân từ. Một sinh viên khác muốn biết bằng cách nào mà những thứ chúng ta học được trong đời này làm lợi ích đời kế tiếp. Ngài dạy rằng các hiểu biết ban đầu phụ thuộc vào những ngôn từ mà ta đọc hay lắng nghe, nhưng khi chúng ta suy tư về lý nghĩa và phát triển sự xác quyết thì những ảnh hưởngý nghĩa về những điều mình thấu hiểu thì sẽ in vào dòng tâm, thậm chí nếu ta không còn nhớ được những từ gốc ban đầu nữa.

Trở lại với việc tụng đọc bộ kinh văn Cây Niềm tin, khởi Động cơ của  Dromtonpa, ngài đã nhắc tới các phẩm hạnh của một vị thầy được ghi chép trong luật tạng, trong khi kinh điển liệt kê 10 phẩm hạnh. Ngài trích dẫn lời của đức Je Tsongkhapa dạy rằng, những ai mong nguyện điều phục dòng tâm của người khác trước hết phải điều phục dòng tâm của chính mình. Bồ đề tâm giác tỉnh rất là quan trọng nhưng những phẩm hạnh khác cũng phải được khai phát là dũng lựctín tâm. Ngài dạy rằng ngày mai ngài sẽ cử hành nghi thức khai phát tâm Bồ đề  và bởi phần lớn thính chúng là sinh viên, nên ngài cũng sẽ truyền trao quán đỉnh Văn thù, vị bồ tát tượng trưng cho trí tuệ.

“Cá nhân tôi có trải nghiệm riêng rằng nếu quý vị biết nương nơi đức Văn thù, thiền quán và trì tụng chân ngôn đức Văn thù, có thể giúp quý vị tăng trưởng trí tuệ và sự thông mình của mình.”

Ngày thứ ba, mùng 03 tháng 06, 2016- Trong nghi thức khai phát Bồ đề tâm, ngài trích dẫn lời của đức Di Lặc trong “Tràng phan Liễu ngộ Thực Chứng” đã định nghĩa Bồ đề tâmtâm nguyện chứng đạt giác ngộ vì lợi ích của hết thảy chúng sinh.

Bất kỳ khi nào chúng hữu tình nghĩ về bản thân mình, họ đều có một ý niệm về cái tôi trong mối quan hệ với thân, tâm, với gia đình và bạn bè họ. Con người có một ý niệm về cái tôi là người làm chủ hợp uẩn vật lý-tâm lý. Nhưng Phật Pháp lại không thừa nhận bất kỳ sự tồn tại  nào về cái tôi. Giáo pháp không thừa nhận bất kỳ một ý niệm nào về một cái tôi tồn tại một cách cố hữu.

Nếu quý vị chỉ suy nghĩ về bản thân mình, quý vị đã tự đặt mình vào một tình huống bất lợi. Nếu thay vào đó, quý vị rộng mở tâm hồn, trái tim và mở rộng sự quan tâm tới mọi người, quý vị sẽ tự do khỏi sợ hãibất an. Nếu quý vị biết nhìn tất thảy mọi hữu tình cũng đều giống như quý vị, họ đều không muốn khổ đau, thì tâm ngã ái sẽ được giảm thiểu. Hãy nhìn những người xung quanh mình, những người biết tôn trọngquan tâm tới mọi ngườixu hướng an lạc hơn những người chỉ biết tới lợi ích bản ngã của mình. Hãy nghĩ về những người biết chia sẻ những thứ họ có, bất kỳ những gì tốt lành họ có và so sánh với những người chỉ biết khư khư giữ cho mình, ai trong số họ hạnh phúcbình an hơn?

Là những người Tạng trẻ tuổi, hãy mở rộng lòng mình tới tha nhân, tới 6 triệu người dân tộc chúng ta, tới những người dân châu Á khác, tới toàn bộ dân số thế giới và tới hết thảy chúng hữu tình. Bồ đề tâmtâm nguyện chứng đạt giác ngộ vì lợi ích hết thảy chúng sinh. Bồ đề tâm bao gồm hai phần, tâm nguyện lợi ích mọi người, chúng sinhtâm nguyện chứng đạt giác ngộ.

Ngài chia sẻ về khoảng 40 tới 50 năm trước, ngài luôn tôn kính Bồ đề tâm nhưng thực sự thì khai triển trong thực tế không hoàn toàn dễ dàng. Sau đó vào năm 1967, ngài nhận được những luận giảng về Nhập Bồ tát hạnh từ Khunnu Lama Rinpoche, thầy đã khuyên ngài nên truyền dạy bộ luận này cho đại chúng. Dần dần sự quan tâm của ngài ngày một lớn hơn và ngài bắt đầu thấy Bồ đề tâm thực sự có thể tiếp cận được trên thực tế. Ngài Shantarakshita đã dạy rằng, những ai có trí tuệ sắc bén phát triển sự thấu hiểu Tính không trước hết và sau đó trưởng dưỡng Bồ đề tâm trên nền tảng đó, ngài dạy rằng ngài cũng thực hành tuần tự theo thứ lớp như vậy. Ngài dạy rằng, ngài đã suy tư về Tính không từ khi mới 20 tuổi, nhưng điều quan trọng chính là phải hợp nhất được Tính khôngTừ bi.

Trong suốt thời khóa khai phát Bồ đề tâm, ngài đã dừng lại kể cho đại chúng về tôn tượng Avalokiteshvara tại Tsuglagkhang. Ngài nhắc tới một giấc mơ mình đang nhiễu quanh một tôn tượng đức Avalokiteshvara tự hiện khởi. Tôn tượng đã cất lời mời ngài tới gần và khi ngài tới gần, tôn tượng đã trì tụng cúng dường ngài một câu kệ về giữ niềm tinh tấn hỷ lạc. Tôn tượng này sau đó bị phá hủy trong suốt cuộc Cách mạng văn hóa, nhưng một số mảnh vỡ của tượng đã được ngài mang theo. Những mảnh vỡ đã được đặt trong tôn tượng quan Âm Thập nhất diện tại chính điện ngày nay.

 Tiếp đến ngài khẩu truyền chân ngôn Văn Thù, quán đỉnh bắt nguồn từ ngài Rinjung Gyatsa, một tập nghi quỹ và các giới nguyện từ ngài Panchen Rinpoche đời thứ IV (1781-1854). Tiếp đến ngài khẩu truyền các câu kệ trong “Cây Niềm tin, khởi Động cơ” của ngài Dromtonpa.

Ngài nhắc tới bậc trưởng lão Amdo Lama trứ danh đã thỉnh mời ngài tới làng để truyền trao giáo pháp. Khi ngài đã trả lời rằng, ngài đã có tuổi để có thể đi giảng ở những nơi xa xôi như vậy, người dân làng đã trả lời rằng: Xin ngài hãy tới thậm chí chỉ tới ban sự gia trì thôi. Sau đó ngài đã tới và truyền ban giáo pháp rất thâm diệu và khá dài, cuối cùng ngài đã nói rằng: Bản thân không phải là loại bậc thầy chỉ biết đặt tôi bàn tay trần tục lên đầu người khác để ban cho họ sự giải thoát. Bản thân ngài chỉ mang lại những khai thị giúp họ thấu hiểu được giáo pháp của đức Phật thôi.”

La Sơn Phúc Cường trích dịch từ Dalailama.com
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11361)
Tất cả chúng sanh vì chẳng thấy Phật tánh nên thường bị phiền não trói buộc mà phải lưu chuyển trong sanh tử.
(Xem: 9874)
Phàm những gì có hình tướng thì tất cả đều bị chi phối bởi sự vô thường, mà đã vô thường thì nguyên nhân chính của nó là khổ...
(Xem: 11277)
Lúc ấy Đức Thế Tôn đã ôn tồn mà nói cùng đại chúng: “Này A Nan! sau khi ta diệt độ các ông hãy nương tựa vào chính mình và hãy lấy giới luật làm thầy.”
(Xem: 9146)
Tất cả những giáo lý của Đức Phật căn cứ trên Bốn Chân Lý Cao Quý. Trong giáo lý Bốn Chân Lý Cao Quý chúng ta nhận ra hai tập hợp của nguyên nhân và hệ quả.
(Xem: 9711)
Thầy dìu dắt từ đó tôi được tiếp xúc gần và rất gần Ngài do vậy tôi học ở ngài được nhiều thứ trong cuộc sống, giờ giấc, tinh tấn, chuyên cần , nhất là việc tu tập v.v...
(Xem: 9786)
Một trong bốn chân lýĐức Phật dạy là chân lý về sự khổ, khổ đế trong Tứ diệu đế. Đức Phật dạy bản chất của thế gian là bất toàn, bất toại nguyện, là vô thường, là đau khổ.
(Xem: 13776)
Chẳng có gì đơn độc sinh ra, tồn tại, chuyển động, và biến mất giữa cõi đời. Chẳng có gì gọi là độc hành, độc lập, độc bộ, độc cư, cô thân, cô độc, cô đơn…
(Xem: 9730)
Đâu hay tất cả đều là sự công bằng tuyệt đối khi ta soi vào nhân duyên nghiệp báo không chỉ ở kiếp này mà từ những kiếp quá khứvị lai được giải thích cặn kẽ trong kinh điển nhà Phật.
(Xem: 12828)
Vận nước như dây quấn, Trời Nam mở thái bình, Vô vi ở điện các, Chốn chốn dứt đao binh...
(Xem: 9871)
Trong giáo lý của đạo Phật, “cho sự không sợ hãi” được xem là một hạnh nguyện cao quý gọi là vô úy thí (abhada-dàna), là Thánh hạnh (Ariya-cariyà), thiện hạnh (kusala- cariyà)
(Xem: 10364)
"Này Angulimala! Ta đã dừng lại từ lâu rồi, chính anh mới là người chưa dừng lại..."
(Xem: 17123)
Thệ giả như tư phù, bất xả trú dạ - Trôi chảy mãi ngày đêm không ngừng nghỉ như thế này ư?
(Xem: 9283)
"Từ lúc này cho đến hết ngày hôm nay, tôi sẽ đưa vào sự thực tập những gì tôi tin tưởng một cách tối đa như tôi có thể"...
(Xem: 10488)
Khi trải qua một cơn bạo bệnh hay tuổi đã xế chiều thì ý niệm về lão-bệnh-tử, tức phải đối mặt với sự chết hiện ra ngày một rõ ràng hơn...
(Xem: 14220)
Một thời đức Phật ngự tại vườn Cấp Cô Độc nước Xá Vệ (trung Nam Ấn Độ), khi đó Vua Tần Bà Sa La nước Ma Kiệt (trung Bắc Ấn Độ)
(Xem: 9928)
Tôi đến chùa Viên Đức, Đức quốc vào thứ 6, tưởng là sớm, tới nơi lúc 22 giờ 30 Phật tử đã đông nghẹt, mọi phòng đều chật cứng nằm xếp lớp...
(Xem: 11362)
“Vũ trụ mà tôi và bạn thể nghiệm bây giờ, với cây cối, nhà máy, con người, nhà cửa, xe cộ, hành tinh và các thiên hà, chính là ý thức biểu hiện ở một tần số đặc biệt nào đó."
(Xem: 9272)
Sau khi quy y Tam bảo, trở thành Phật tử rồi thì kính lễ, cúng dường Phật-Pháp-Tăng mỗi ngày, mỗi lúc là một trong những hạnh tu căn bản của người con Phật.
(Xem: 11368)
Đọc trong “Tưởng Niệm và Tri Ân,” người đọc sẽ thấy nhà thơ trẻ của chúng ta lúc nào, ở đâu và đối với bất cứ điều gì cũng nghĩ đến ân đức và tình nghĩa.
(Xem: 10842)
Bài phát biểu của của đô đốc William McRaven, người đứng đầu Bộ chỉ huy Các chiến dịch liên hợp đặc biệt - NAVY SEAL - MỸ
(Xem: 14508)
Không có người bạn nào tốt hơn cho tương lai hơn là bố thí - ban cho tặng phẩm thích đáng. Đối với tu sĩ, giáo sĩ, người nghèo, và bạn hữu - Biết những tài sản là chóng tàn phai và vô lực.
(Xem: 10503)
John Stuart Mill: “Tôi đã học cách tìm hạnh phúc bằng cách giới hạn các ham muốn của mình hơn là nỗ lực để thỏa mãn chúng”
(Xem: 9320)
Có lẽ ngày nay nhân loại đã thực sự thức tỉnhnhận ra rằng, không ai có thể cứu rỗi được cho ai hết. Và sẽ không có một thiên đường nào ở ngày mai...
(Xem: 13339)
Khoa học hiện đại đã tiến đến một biên giới, nơi đó sự gặp gỡ của khoa học Tây phương với minh triết truyền thống tâm linh Đông phương là điều tất yếu.
(Xem: 9770)
“Người ngu thấy là ngọt, Khi ác chưa chín muồi; Ác nghiệp chín muồi rồi; Người ngu chịu khổ đau”.
(Xem: 13919)
Tất cả chúng ta vì bị vô minh che lấp nên khi có mặt trên thế gian đều không có nhận thức sáng suốt, do đó ta chỉ lo thụ hưởng sự ăn uốngnhẫn tâm giết hại các loài vật.
(Xem: 20199)
“Nhất thiết hữu vi pháp; Như mộng, huyễn, bào, ảnh; Như lộ diệc như điện; Ưng tác như thị quán.”
(Xem: 10137)
Ta giao tiếp với bạn bè điều tối kỵ nhất là nói về lợi và đừng bao giờ dùng thủ thuật về lợi để mưu cầu.
(Xem: 8586)
Bệnh tật là một nỗi khổ căn bản của chúng sanh, sanh lão bệnh tử khổ. Hễ có thân thì có bệnh, mà đã bệnh tật đau yếu thì không ai muốn và chẳng vui chút nào.
(Xem: 9660)
Nghiệp là một thói quen được tích lũy từ ba nghiệp thân, khẩu, ý, đồng hành với chúng ta trong từng hơi thở, gắn bó thủy chung từ khi ta vừa lọt lòng mẹ cho đến ngày ta nhắm mắt xuôi tay.
(Xem: 8710)
... những câu chuyện buồn và bất hạnh bao giờ cũng để lại những vết khắc sâu thẳm trong tim, khó mà nguôi ngoai dễ dàng.
(Xem: 11009)
Chúng ta đến đây với những giọt nước mắt để hết sức mở một con đường, để rẽ sóng mà đi trên biển đời vô tận.
(Xem: 12466)
Phật tử, chúng ta cần phải nhận định rõ ràng, đức Phật không phải là một vị thần hay thượng đế để ban ơn, giáng họa cho bất cứ ai.
(Xem: 28011)
Tôi tin rằng mọi khổ đau đều sinh ra từ ngu muội. Người ta gây ra đau đớn cho người khác, khi ích kỷ theo đuổi hạnh phúc hay thỏa mãn riêng mình...
(Xem: 10626)
Một vài chiếc thuyền máy lướt qua, tạo những vòng sóng từ nhỏ đến lớn, tỏa ra rồi tan biến trên mặt hồ. Bọt trắng lao xao nổi bật trên giòng nước xanh.
(Xem: 9792)
Đạo Phật là đạo giác ngộ. Giác ngộ là thấy tánh. Muốn thấy tánh thì tu thiền, như đức Thích Ca Mâu Ni do thiền dưới gốc cây Bồ Đềgiác ngộ thành Phật.
(Xem: 11834)
Nhờ chút công đức phóng sanh ngày ấy cho mẫu thân mà tôi cũng được hưởng phước lây, bởi căn bệnh lạ tôi phải chịu đựng 25 năm qua bỗng dưng ra đi không nói lời từ biệt.
(Xem: 10437)
Sống làm sao cho cuộc đời trở nên đáng sống, có ý nghĩa, có lý tưởng, có thương yêu hiểu biết thì đó là Đời Đạo.
(Xem: 8894)
Nhà Phật thường nêu châm ngôn “Bi – Trí – Dũng” để khuyến khích hành giả vận dụng đầy đủ ba đức tính này trong đời sống, không để khiếm khuyết mặt nào.
(Xem: 10542)
Tôi ngồi lặng lẽ, nhìn những lá phong vàng sậm và đỏ ối, âm thầm rơi trong không gian tinh mơ quanh khu nhà quàn. Thấp thoáng vào, ra, là những người chít khăn tang trắng, gương mặt phờ phạc, buồn rầu.
(Xem: 8922)
Cuộc đời của đức Phật rất vĩ đại, vô vàn những điều hay, chúng ta không tài nào học hết được.
(Xem: 9903)
Bài viết dưới đây được dịch từ một bản tiếng Pháp mang tựa là Compassion, medecin insurpassable (Lòng Từ Bi, một vị lương y vô song) của một học giả Phật Giáo rất uyên bác là bà Sofia Stril-Rever.
(Xem: 9551)
Ngọn núi cao như Hy Mã Lạp Sơn cũng từ một hạt bụi mà thành. Đại dương mênh mông như Biển Thái Bình cũng do từng giọt nước mà có.
(Xem: 13932)
Tiểu thuyết Hồn bướm mơ tiên đã là cuốn sách làm say mê độc giả một thời, ấy là vì nó là lời tự bạch của một thế hệ...
(Xem: 16110)
“Con lớn rồi vẫn là con của mẹ, Suốt cuộc đời mẹ vẫn theo con…”
(Xem: 11752)
Hoan hỷ trong mùa Phật Đản đang về, xin cung kính đảnh lễ đức Thế Tôn, bậc Thầy vĩ đại của thế gian, bậc trí tuệ tối thắng không ai bằng.
(Xem: 9047)
Tham lam cũng giống như áng mây mù dày đặc nhưng đôi lúc chúng ta thường gặp ở miền đồi núi, khiến chúng ta không thấy rõ đường đi trước mặt mình.
(Xem: 17659)
Vào đầu thế kỷ XV, ngụy tạo danh nghĩa diệt Hồ phù Trần, nhà Minh sai bọn Trương Phụ, Mộc Thạnh đem quân đánh chiếm nước ta.
(Xem: 9921)
Thật hạnh phúc có được một bậc thầy như Người: Đức Phật. Người đã đến thế giới này để mở lối đi cho tất cả... Vĩnh Hảo
(Xem: 9341)
Bài Tường thuật khoá tu học Phật pháp của Gia Đình Phật Tử Thiện Trí tại Thụy Sĩ lần thứ 6 năm 2014... Trần Thị Nhật Hưng
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant