Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Sức Mạnh Của Lòng Từ

23 Tháng Sáu 201613:07(Xem: 7965)
Sức Mạnh Của Lòng Từ

SỨC MẠNH CỦA LÒNG TỪ

Thích Khế Định

Sức Mạnh Của Lòng Từ

Đức Phật đã dạy: “Gieo nhân nào gặt quả đó”. Ngày hôm nay quý vị được làm thân người, sáu căn đầy đủ thì phải biết rằng trong quá khứ mình đã gieo nhân rất tốt. Nếu không tiếp tục gieo nhân thì dù cho quý vị có đến chùa, được Thầy cầu chúc điều tốt lành mà quý vị còn có tâm sát sanh thì lời cầu chúc cũng vô ích. Nếu muốn được an vui thì phải khởi tâm từ bi. Muốn có được tâm từ bi thì phải gieo nhân.

Có một vị Thừa tướng một hôm đến thưa với Thiền sư Mã Tổ: “Nên ăn thịt uống rượu hay không nên ăn thịt, uống rượu?”

Thiền sư Mã Tổ trả lời: “Ăn thịt uống rượu là duyên phận, còn không ăn thịt uống rượu là phúc khí”. Tức là nếu quý vị được ăn thịt, uống rượu đầy đủ là duyên phận của quý vị tốt. Nếu quý vị ở một xứ nghèo khổ, muốn ăn thịt, uống rượu cũng không có. Đó là do trong quá khứ đã gieo nhân xấu nên giờ chịu quả khổ đói kém.
Còn “Không ăn thịt, uống rượu là phúc khí”, có nghĩa là mình có mà mình không ăn hoặc giảm bớt, chẳng hạn như có ngày đáng lẽ quý vị định giết gà để ăn mà mình kiêng cữ không sát sanh (như mùng 1 hoặc ngày rằm), tức là có sự giảm bớt thì phúc của quý vị ngày càng tăng trưởng, tạo nhân lành để kiếp sau mình sinh ra trong cảnh yên ổn hơn ngày hôm nay. Cho nên chúng ta phải tạo dựng cho mình một cuộc sống có sức mạnh của lòng từ.

“Từ” là ban vui, “bi” là cứu khổ. Đức Phật thấy chúng sanh còn lăn lộn trong ba đường sáu nẻo, sống chết không biết đi về đâu nên Ngài khởi tâm từ bi, bỏ cung vàng điện ngọc, vợ đẹp, con thơ nên quyết tâm ra đi tìm đạo, thấy được con đường thoát khổ và chỉ dạy lại cho chúng sanh cũng ra khỏi cảnh khổ.

Tinh thần của Bồ Tát đạo luôn luôn lấy ba pháp làm tiêu điểm.

Một là “chúng sanh từ”, có nghĩa là theo cặp mắt của người giác ngộ thì thấy tất cả chúng sanh trong cõi đời này đều có nhân duyên nhiều đời từ kiếp quá khứ, hoặc làm cha, hoặc làm mẹ, hoặc làm anh em. Đức Phật có dạy: Đi cùng trên một chiếc thuyền hay chuyến đò đã có nhân duyên 500 kiếp, cho nên phải có nhân duyên rất sâu dày nên ngày hôm nay chúng ta mới cùng nhau ngồi đây nghe và học hiểu Phật pháp. Cho nên hàng Bồ Tát lấy “chúng sanh từ” làm tiêu điểm để đi vào cuộc đời này. Quý vị thử nghiệm một điều: Tại sao trong cuộc đời, nhiều khi mình khởi được tâm từ bi đối với con vật nhưng lại không thể khởi được tâm từ bi đối với con người, có khi cả với người thân của mình, thậm chí nhiều khi còn thù ghét, tật đố, ích kỷ. Sở dĩ như vậy là do chúng ta không có sức mạnh của lòng từ. Còn khi chúng tasức mạnh của lòng từ thì dù cho người đó có chỉ trích, đánh đập, hủy nhục mình, mình vẫn cười, an ổn sống trong cuộc đời này. Đó mới là người Phật tử chân chánh. Cho nên Phật pháp rất là thiết thực, mình học Phật pháp không phải là học suông mà học để cho mình có được sức mạnh của lòng từ.

Hai là “Pháp giới từ”. Theo cặp mắt giác ngộ của chư Phật, chư Bồ Tát thì tất cả chúng sanh đều là huyễn và tất cả các pháp cũng đều là huyễn. Bồ Tát vào cuộc đời này, biết các pháp là huyễn, chúng sanh là huyễn nhưng các Ngài vẫn khởi tâm từ bi, dùng sức mạnh của lòng từ để đánh thức, lay tỉnh mình khỏi cơn mê.

Ba là “Vô duyên từ”, tức là lòng từ không cần duyên cớ. Sở dĩ các Ngài bố thí, thấy đói liền cứu, thấy khổ liền giúp, làm hết tất cả thiện phápkhông chấp, không trụ là bởi vì có lòng từ không duyên cớ. Sở dĩ các Ngài được như vậy là do có sức mạnh của lòng từ bi đã gieo nhân từ thời quá khứ. Còn mình nhiều khi bố thí, cúng dường cầu phước là mình có pháp để chấp, có pháp để trụ.

Trong Kinh nói: “Chư Phật trong mười phương đều chứng quả trong nhân đạo”, có nghĩa là Phật pháp tại thế gian, chẳng lìa thế giangiác ngộ. Lìa thế gian tìm quả Bồ đề giống như tìm sừng thỏ. Muốn thành Phật đạo, đừng ỷ lại vào việc đến chùa, tụng kinh, sám hối. Đến chùa gieo duyên với Tam Bảo cũng tốt, nhưng chỉ là tu với Phật, còn ra ngoài đời mới là tu thực sự. Ở chùa, quý vị tụng kinh, sám
hối, ngồi thiền rất là thành tâm nhưng về nhà bị người thân nói ra nói vào mà quý vị nổi tham, sân, si thì Phật đạo khó thành, sau này cận tử nghiệp đến sẽ dễ chiêu cảm quý vị đến cảnh giới xấu.

Trong Kinh Duy Ma Cật: “Làm hết tất cả các việc phàm phu mà luôn luôn khởi niệm Phật đạo”, tức là khi lái xe hay khi nấu cơm, quét nhà, giặt giũ đều trong tinh thần chánh niệm, tỉnh giác. Muốn biết một người giải thoát hay không giải thoát thì thấy người đó sống trong cuộc đời giải thoát hay không giải thoát.

Đức Phật do sức mạnh của lòng từ bi đã độ thoát cho người cực ác như Ương Quật Ma La (giết người rất nhiều) hay người nghèo hèn như ông Ni đề (làm nghề hót phân).
Nhân địa tu hành Bồ Tát đạo: Bồ Tát thường dùng sức mạnh của lòng từ bi làm bổn nguyện, lấy thân mình làm cầu để độ cho tất cả chúng sanh, dù người đó là người thiện hay người ác. Bồ Tát vào cuộc đời đối với người thân hay người thù ghét, hủy nhục mình đều coi như bình đẳng, giống như cây cầu, có tình nhưng vô tình với tất cả các pháp. Quý vị cũng có thể có tình, thương hết tất cả mọi người
nhưng trong tình thương đó vẫn lồng bản ngã của chính mình, không thâm nhập được tinh chất của con đường vô ngã, ai đụng vào mình thì dễ nổi sân, si.

Thiền sư Triệu Châu một hôm có một vị tăng đến hỏi:

“Nghe danh cầu đá Triệu Châu đã lâu, nhưng đến đây chẳng thấy cầu đá, chỉ thấy cầu khỉ”.

Thiền sư Triệu Châu nói:

“Ông chỉ thấy cầu khỉ, chưa từng thấy cầu đá”.

Ông Tăng hỏi: “Thế nào là cầu đá của Triệu Châu?”

Ngài nói: “Độ lừa, độ ngựa, độ hết tất cả mọi người”.

Cầu đá Triệu Châu, đó là tâm bình đẳng độ hết tất cả chúng sanh, cho nên các ngài vào cuộc đời này nhưng không bị cuộc đời này làm cho đau khổ. Còn mình làm thiện pháp mà có tâm chấp trước thì ai nói gì mình cũng đau khổ.

Trong Nhân địa Bồ Tát hạnh, Đức Phật cũng từng xả hết tất cả: đầu, mắt, tai, mũi, lưỡi, thân để bố thí, cúng dường. Sở dĩ Ngài làm được như vậy bởi vì Ngài có sức mạnh của lòng từ bi. Quý vị cũng có thể bố thí giống như Đức Phật ngày xưa.
Chẳng hạn có người chửi mắng, nhục mạ quý vị thì quý vị đừng duyên theo tiếng chửi mắng mà khởi lòng thương người đó đang nằm trong cảnh giới vô minh, nếu giờ mình chửi mắng lại thì không khác gì người đó cả. Tức khắc giờ đó quý vị đang bố thí lỗ tai. Hoặc đi đến chùa hay chỗ đông người, nhìn thấy người mình không ưa, có thù ghét mà tâm bình thản, coi người đó giống như người thân của mình thì giờ phút đó mình đang bố thí cặp mắt (sau này ra đời cặp mắt như hoa sen). Trong cuộc sống, ai sanh ra cũng muốn mình xinh đẹp, nhưng không phải ai cũng được như ý, đó là do nhân địa tu hành ngày hôm nay, mình nói xấu người này, thị phi người nọ. Nếu như mình không nói xấu người này, người khác thì giờ phút đó mình đang bố thí lưỡi. Rồi trong cuộc sống, mình làm hết tất cả các việc thiện pháp mà không chấp trước, thì lúc đó mình đang bố thí tay, bố thí chân, bố thí tất cả mà không chấp trước tất cả. Bố thí bao gồm nội bố thí và ngoại bố thí.

Ngoại bố thíbố thí tiền, tài, của cải mà nội bố thíbố thí thân mình, làm hết tất cả trong tinh thần từ bitrí tuệ.

Thực hành hạnh nguyện từ bi để làm sức mạnh trong cuộc sống đầy của cải vật chất. Trong cuộc sống giữa đời thường, nếu chúng ta không có sức mạnh, năng lực của lòng từ bi thì tâm thức mình sẽ luôn bị phiền não chi phối.

Trong Kinh Trung bộ số 21, Đức Phật dạy:

“Này các Tỳ kheo, như khi những tên đạo tặc hạ liệt dùng cưa hai lưỡi cắt tay chân các ông. Tuy vậy, ngay khi ấy, người nào giữ tâm thù hận, vì lý do đó người ấy không thực hành lời dạy của ta.

Ở đây chư Tỳ kheo, các ông cần tu tập như sau: Tâm sẽ không lạc hướng, ta cũng không thốt lên lời ác mà chúng ta sẽ sống thân ái, bi mẫn với tâm thân thiện, không thù nghịch, chúng ta sẽ sống sung mãn toàn thể thế gian với tâm thuần thiện, bao la quảng đại, không căm thù, không sân hận, này các Tỳ kheo, đấy là các ông phải tu tập bản thân”.

Chúng taPhật tử có dám phỉ báng Phật không? Phật nói nếu người nào tu học Phật pháp mà không thâm nhập được nghĩa lý của Phật pháp, không hành theo lời Phật dạy thì người đó phỉ báng Như Lai. Nếu ai đó nói nặng lời với mình, ngay khi đó mình giữ tâm bình thản, không thù hận, không thốt lên lời ác thì lúc đó mình đang sống với tâm từ ái, là thực hành theo những lời Phật dạy.

Trong Kinh Trường bộ 1, Phật dạy:

“Tu tập đời sống tối thượng là cách hành trì của các bậc thượng nhân, sống đời từ bi bởi vì đây chính là cách sống tối cao ở đời, hoặc là những trạng thái tâm cao thượng có tên từ ái, tình thương vô hạn, bao la và đầy thiện chí. Đối với muôn loại hữu tình, bi mẫn với tất cả chúng sanh đang đau khổ trong bất an, hoạn nạn
mong được cứu giúp”.

Do đó, Đức Phật thường khuyến khích các đệ tử thực hành hạnh từ bi và Ngài luôn luôn nhấn mạnh đến con đường tu tập lòng từ. Nhờ phát triển lòng từ mà các đệ tử ngài có sức mạnh đi vào cuộc đời mà không bị cuộc đời làm cho đau khổ.

Toàn bộ giáo pháp của Đức Phật đều nêu lên sức mạnh của lòng từ bi. Nếu có năng lực của lòng từ bi, quý vị khỏi cần ai cầu chúc điều gì cả mà vẫn được mạnh giỏi, được an lạc. Còn cầu chúc hay mà quý vị không gieo nhân thì cũng không được như lời chúc. Gieo nhân tốt thì mới gặt được quả tốt.

Quý vị phải nhớ, đến chùa không phải là để xin. Phật không phải là một vị thần linh để ban phước, giáng họa cho ai mà Đức Phật là bậc thầy dẫn đường, chỉ cho mình biết đi con đường nào là con đường khổ, đi con đường nào là con đường an lạchạnh phúc, còn đi hay không đi là do chính mình quyết định.

Trong Kinh A Hàm, khi ngài A Nan bạch Phật rằng:

“Bạch Đức Thế Tôn, nửa phần giáo pháp của Đức Thế Tôn nằm trong việc tu tập lòng từ.
Đức Phật dạy rằng: Không phải nửa phần mà toàn bộ giáo pháp của Như Lai.

Trong Kinh Pháp cú, Phật dạy: “Lấy từ biôn hòa để thắng nóng giận, lấy hiền lành để thắng hung dữ. Lấy bố thílòng rộng rãi để thắng san tham. Lấy chân thật để thắng giả dối”.

Sở dĩ quý vị nóng giận là do mình không phát khởi được tâm từ bi. Nếu tâm từ bi sung mãn thì dù người đó nói nặng mình cũng bỏ qua. Cho nên những người hay nóng giận phải quán tâm từ bi thật nhiều để xóa bớt nghiệp nóng giận.

Trong Kinh Pháp cụ, Phật dạy:

“Vui thay khi ta sống
Không hận giữa hận thù
Giữa những người hận thù
Ta sống không hận thù”.

Tức là mình sống giữa những người tật đố, những người ghét mình mà mình không có hận thù, không có tật đố. Muốn được như vậy, mình phải phát khởi tâm từ bi thật rộng. Tinh thần từ bi đó có trí tuệ Bát Nhã, thấy đúng như thật.
Chiến thắng chính bản thân mình, chiến thắng sự nóng giận, lòng tham lam của chính mình thì đó là người có sức mạnh bậc nhất.
“Thắng ngàn quân địch chưa phải là chiến công oanh liệt nhất. Tự chiến thắng mình, đó mới là chiến công oanh liệt nhất”.

Phương pháp tu tập hàng ngày để chuyển hóa tâm sân hận thành tâm từ bi:

Trong Kinh A Hàm kể lại: Một hôm đi khất thực, Tôn giả La Hầu La được mấy đứa nhỏ chửi mắng. Lúc này La Hầu La khởi niệm hoàn tục, về nhà nối ngôi vua, sau đó sẽ giắt binh lính đến tàn sát làng này, đặc biệt là mấy đứa nhỏ. Đức Phật thấy được tâm niệm của La Hầu La bèn trách và bắt La Hầu La ngồi xuống dùng phương pháp sổ tức, theo dõi hơi thở và từng niệm xấu ác của mình. Sau khi thấy rõ được niệm xấu của mình thì quý vị mới chuyển hóa được niệm xấu thành niệm tốt được, còn mình sợ và trốn tránh thì làm sao mà chuyển hóa được.

Tối trước khi đi ngủ, chịu khó ngồi lại tịnh tâm nhìn lại ngày hôm nay mình đã làm điều gì xấu ác, ảnh hưởng đến những người chung quanh mình. Khi thấy được rồi thì phải phát nguyện từ nay trở đi con không làm điều gì xấu ác cho người khác nữa. Như vậy, chắc chắn khi ra đi mình sẽ sinh về cảnh giới lành. Trong lúc đi trên con đường Bồ Tát đạo, quý vị phải thực thi con đường chánh niệm, làm việc gì rõ
biết mình đang làm việc đó, biết là đúng hay sai. Đó là “trạch pháp giác tri”, phân biệt rõ ràng thiện và ác.

Vì thế, tâm từđặc tính không luyến ái bất kỳ ai. Nó bao hàm một tình thân hữu không có nhục dục. Bởi vậy tình thương của Đức Phật trải rộng ra không chỉ có loài người, mà còn cho tất cả chúng hữu tình.

Như trong Kinh Tiểu bộ, Phật nói:

“Nguyện cầu an lạc chúng sanh.
Mọi loài tâm trí tốt lành vui tươi.
Cầu sao tất cả muôn loài,
Cao to yếu mạnh ngắn dài, nhỏ chung.

Dầu ta thấy được hay không,
Những loài xa vắng hay gần bên ta.
Những loài đã được sanh ra,
Hoặc chưa sanh thảy an hòa tâm tư”.

Trong Kinh A Hàm, Phật dạy tiếp:

“Này các Thầy Tỳ kheo, thật không dễ dàng tìm thấy một vị hữu tình nào ở trong tiền kiếp lại không phải là mẹ, cha, anh, chị, con trai, con gái các ông ở một kiếp quá khứ trong vòng luân hồi tái sinh vô thủy này”.

Có một ông Tăng trong pháp hội của Ngài Trí Khải đại sư, một hôm nhớ mẹ quá nên khóc. Ngài Trí Khải bèn nói: “Ông chỉ thấy được kiếp hiện tại là mẹ ông thôi, còn trong quá khứ lâu xa biết bao chúng sanh là cha, là mẹ của ông. Vô lượng kiếp về trước, cha mẹ ông rất là nhiều”. Lúc này ông Tăng tỉnh ngộ.

Sở dĩ mình đau khổ trong cuộc đời này là mình chấp chặt vào cha mẹ trong hiện đời, còn với cặp mắt giác ngộ của đức Phật thấy tất cả mọi người đều là cha, là mẹ của mình. Thấy như vậy, quý vị còn khởi niệm sân hận được không?

Trong Kinh Tăng chi bộ, Phật nói về mười một điều lợi ích của sự tu tập từ bi:

1. Ngủ ngon
2. Thức dậy thấy khỏe, nhẹ nhàng trong lòng (Người có tâm quảng đại, luôn
bao dung, tha thứ thì ít bệnh hơn những người luôn cau có, cằn nhằn).
3. Ngủ không có ác mộng.
4. Được gần gũi và thân cận với nhiều người.
5. Được thân cận loài phi nhơn và chim cá
6. Chư Thiên ủng hộ, bảo vệ
7. Không bị lửa, chất độc làm hại
8. Dễ đi vào thiền định
9. Nét mặt luôn trầm tĩnh
10.Lúc chết không có mê mờ,
11. Khi chết sanh vào cõi trời Phạm thiên.

Trong Kinh Như Thị ngữ, Đức Phật dạy: “Tất cả công đức mà ta thực hiện ở trên đời, góp lại cũng không bằng sự thực tập từ quán. Làm chùa, đúc chuông hay làm việc xã hội, v.v…, tất cả những công đức đó chỉ bằng một phần mười sáu công đức thực tập lòng từ. Cũng như khi nhìn lên trời, chỉ thấy trăng vào sao, và nếu ánh sáng của các ngôi sao hợp lại không bằng ánh sáng của mặt trăng”.

Tóm lại, sống trong cuộc đời này phải luôn luôn phát khởi lòng từ bi đối với tất cả mọi người, đó là năng lực, là sức mạnh để chúng ta sống trong cuộc đời này mà không bị cuộc đời làm cho đau khổ.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2531)
Vô ưu, Phạn ngữ Asoka, Hán ngữ phiên âm A du ca, A thúc ca, A thuật ca… dịch nghĩa là Vô ưu hoa, hoa không ưu tư phiền muộn.
(Xem: 2227)
Tu tâmtìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm.
(Xem: 2660)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2525)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2354)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2668)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2438)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3248)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2321)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2411)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2544)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2467)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2540)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2211)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2579)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3048)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2651)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2711)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 2997)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2558)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2592)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4099)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2774)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3066)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3310)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2290)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2502)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2803)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 3003)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2870)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2608)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2634)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3189)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2595)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2271)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2389)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2479)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2597)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2691)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2745)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3266)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2557)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2131)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2600)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2052)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2819)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2905)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2939)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2715)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
(Xem: 2511)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant