Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Quán Tâm Từ

23 Tháng Sáu 201613:13(Xem: 8190)
Quán Tâm Từ
Trong Kinh Như Thị Ngữ (Itivutthaka), Đức Phật nói: "Tất cả những công đức mà ta thực hiện ở trên đời góp lại cũng không bằng công đức của sự thực tập Từ Quán. Làm chùa, đúc chuông, hay làm việc xã hội... tất cả những công đức đó chỉ bằng một phần mười sáu của công đức thực tập lòng Từ." Cũng như nhìn lên trời chúng ta thấy trăng và sao, và nếu ánh sáng của tất cả các ngôi sao họp lại không bằng ánh sáng của mặt trăng, thì tất cả các công đức khác góp lại cũng không bằng ánh sáng của Từ Quán.

QUÁN TÂM TỪ
Gieo chủng tử từ bi

Tỳ khưu Visuddhàcàra


tu-bi-trong-dao-phat

Quán tâm từ đặc biệt thích hợp cho người nóng tính, thí dụ như người dễ nổi giận, nuôi dưỡng ác cảm, khó quên, khó tha thứ, ôm ấp hận thù, oán hận. Những kẻ nóng tính, dễ cáu, sau khi thực hành quán đều đặn thì tính khí xấu này không còn nữa. Đối với kẻ đằm tính thì phép quán này đem đến nhiều lợi lạc, vì tất cả chúng ta ai cũng thường xuyên bực mình, khó chịu, pháp quán này giúp chúng ta bình thản, dễ chịu hơn. Ngoài ra, cũng còn nhiều điều lợi khác sẽ thảo luận sau. Tuy bây giờ nói về lợi lạc, nhưng cuối cùng sự thực hành tâm từ sẽ phát triển loại tình thương mà khi thương chỉ vì thương xót, chỉ nhằm giảm bớt đau khổ của tha nhân và đẩy mạnh thiện tâm, lòng dũng cảm, niềm an lạc hạnh phúc. Những điều lợi chúng ta nói ra ở đây, lúc đó sẽ trở nên thứ phụ không quan trọng nữa, nhưng ban đầu chúng được xem như nguyên động lực đưa ta đến thực hành.

Một trong những mục tiêu thiền quánđạt được sự tập trung tình thương hoặc trụ tâm vào một điểm. Khi tâm trụ vào một điểm, nó ngừng lại và trở nên lặng lẽ, an tịnh. Lúc đó, khuynh hướng lang thang của tâm dừng lại, ít nhất cũng trong lúc tâm trụ lại hoặc chăm chú vào mục tiêu quán tưởng của nó. Tâm rất lặng lẽ và dịu đi tính lăng xăng khi ta đạt tới loại tĩnh lặng này, một sự tĩnh lặng không tư duy, sự tĩnh lặng của tâm an trụ trên một điểm duy nhấtmục tiêu của nó. Tâm trở nên tĩnh lặng như ánh nến cháy đều đặn không chao đảo khi gió không còn nữa.

Trạng thái tĩnh lặng đó, dĩ nhiên hành giả phải trải qua mới hiểu được.

Lúc đó, trên nguyên tắc, là làm tâm trụ vào một điểm, dán chặt vào mục tiêu quán tưởng. Trong trường hợp quán tình thương bi mẫn, thì mục tiêuý niệm tình thương, mong ước tất cả chúng sanh được an lành. Có nhiều phương cách sử dụng để lan toả tình thương đại bi và an trụ tâm vào một niệm. Ở đây, chúng ta sẽ thảo luận một trong những phương cách có thể áp dụng thành công.

Trước tiên, phương cách này được diễn tả trong bốn câu:

"Nguyện cho tất cả chúng sanh thoát ly nguy hại,
Nguyện tất cả thoát ly phiền não,
Nguyện tất cả thoát ly khổ ách,
Nguyện tất cả an lạc hạnh phúc"

Bốn câu nguyện này dễ nhớ. Hành giả phải đọc đi đọc lại bốn câu này trong tâm thức (nghĩa là chỉ cần nhủ thầm trong tâm, không cần đọc lớn) với tính cách thuộc lòng. Tâm có thể so sánh như một máy tính và ý niệm là lập trình với tư tưởng mong ước tha nhân được an lành cho đến khi, nói cách khác, nó tràn ngập tư tưởng này, tràn ngập tình thương. Khi nhủ thầm trong trí, tâm sẽ khởi sự tập trung vào ý niệm tình thương, mong ước an lành cho tha nhân. Những tư tưởng không cần thiết cuối cùng không còn chổ để chen vào, lúc đó tâm sẽ an trụ tại một niệm và hành giả trải qua sự tĩnh lặng đặc biệtchúng ta đã đề cập.

Trước khi đi xa hơn, chúng ta cần giải thích ý nghĩa của bốn câu nguyện thuộc lòng. Một khi hiểu được ý nghĩa của chúng, đương nhiên ta sẽ biết chúng muốn ám chỉ điều gì khi ta nhủ thầm trong tâm hoặc hướng tư tưởng tình thương ra ngoài.

1. Nguyện tất cả chúng sanh thoát ly nguy hại

Có hai loại nguy hại - trong và ngoài.

Nguy hại bên trong ám chỉ sự ô nhiễm tâm (kilesas) như: tham lam, oán ghét, ảo tưởng, lo âu, bồn chồn...gây cho ta nhiều phiền não. Nguy hại bên ngoài như tai nạn xe cộ, thiên tai (hoả hoạn, bão lụt, chuồi đất, động đất,...) và hiểm nguy do kẻ khác hãm hại. Không ai mong những nguy hại này cả trong lẫn ngoài, dù rằng sự nguy hại bên trong xem ra còn tệ hại hơn bên ngoài. Khi lời nói thốt ra, ta trở thành kẻ thù nguy hiểm nhất của chính mình. Nếu ta khắc phục được những ô nhiễm bên trong tâm thức, ta có thể đối mặt với những chướng ngại bên ngoài một cách bình thản.

2. Nguyện tất cả chúng sanh thoát ly phiền não

Ý nghĩa quá rõ ràng. Nó ám chỉ tất cả những đau khổ tinh thần, kể cả cái vi tế nhất. Nó bao gồm: lo âu, bồn chồn, sợ hãi, chán nản, buồn phiền, tuyệt vọng hoặc bất kỳ một trạng thái bất ổn nào của tâm dẫn đến khủng hoảng, đau buồn hoặc khắc khoải, dằn vặt. Không ai muốn phiền não, chúng ta đều muốn sống an vui bình thản.

3. Nguyện tất cả chúng sanh thoát ly khổ ách

Ý nghĩa câu này cũng dễ hiểu, nó bao gồm những đau đớn của thân xác, từ những khó chịu sơ sài của cơ thể, đau nhức và những chứng bệnh như cảm cúm, nhức đầu cho tới những bệnh tật nghiêm trọng như ung thư và bệnh tim mạch - không ai muốn thân xác mình đau đớn.

4. Nguyện tất cả chúng sanh sống an lành hạnh phúc

Tất cả chúng ta cần cố gắng hoàn thành công việc và trách nhiệm của mình. Học sinh phải học hành trong khi người lớn phải kiếm sống. Chúng ta phải hoà thuận với mọi người trong môi trường tiếp xúc, như là đồng nghiệp, bạn bè, thân nhân, thành viên trong gia đình và những người mình yêu thương - cuộc sống sẽ gặp nhiều khó khăn nếu ta không quan hệ tốt với tha nhân, vì thế cần có sự giao hảo với mọi người, tối thiểu hoá các mối bất đồng hoặc không để xung đột xảy ra, tăng cường hảo ý và niềm thông cảm lẫn nhau. Kế đó, ta cũng phải hoàn thành tốt nhiệm vụ, bổn phận của mình. Chúng ta cần phải làm việc có hiệu quả, ngược lại ta sẽ gặp nhiều rắc rối.

Thêm vào đó, ta phải để ý đến thân và tâm hàng ngày. Về thân, ta cần ăn, mặc, thuốc men khi cần thiết, đáp ứng những nhu cầu tự nhiên v.v... Cũng có những công việc lặt vặt hàng ngày phải làm trong sự hân hoan thanh thản. Về tâm, cũng cần để ý thanh lọc bằng cách thực hành thiền quán, tập tự chủ, trau dồi thái độ thích hợpsuy nghĩ sáng suốt.

Vậy khi ta nói "Nguyện tất cả chúng sanh sống an lành, hạnh phúc", có nghĩa là câu nguyện bao trùm tất cả mọi khía cạnh đời sống sinh hoạt hàng ngày. Do đó, người ta có thể hiểu rõ bốn câu nguyện bắt đầu từ "Nguyện tất cả chúng sanh thoát ly nguy hại" bao hàm toàn bộ những điều mà mọi người mong ước. Hiểu được toàn ý của bốn câu nguyện thì sự trải rộng tâm từ bi của ta sẽ có nhiều ý nghĩa hơn.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2531)
Vô ưu, Phạn ngữ Asoka, Hán ngữ phiên âm A du ca, A thúc ca, A thuật ca… dịch nghĩa là Vô ưu hoa, hoa không ưu tư phiền muộn.
(Xem: 2228)
Tu tâmtìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm.
(Xem: 2660)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2525)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2354)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2670)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2438)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3248)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2321)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2411)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2544)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2467)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2542)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2211)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2579)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3048)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2651)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2712)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 3001)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2558)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2594)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4100)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2774)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3066)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3310)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2290)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2502)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2803)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 3003)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2870)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2608)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2636)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3189)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2595)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2271)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2390)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2479)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2597)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2691)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2746)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3266)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2557)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2132)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2600)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2053)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2819)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2907)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2939)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2717)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
(Xem: 2511)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant