Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tầm Quan Trọng của Đối Thoại

16 Tháng Bảy 201620:13(Xem: 10299)
Tầm Quan Trọng của Đối Thoại
TẦM QUAN TRỌNG CỦA ĐỐI THOẠI

Đức Dalai Lama thứ Mười Bốn 

Hội Nghị Phật Giáo Tây Tạng Lần Thứ Nhất tại Châu Âu
Zürich, Thụy Sỹ, tháng Tám 2005
Alexander Berzin hiệu đính
Trần Ngọc Phú chuyển Việt ngữ; Lozang Ngodrub hiệu đính

Tầm Quan Trọng của Đối Thoại

Tinh Thần Bất Bạo Động và Đối Thoại

Hiện tại, chúng ta đang ở thế kỷ hai mươi mốt, và dĩ nhiên sự phát triển về vật chất đã lên đến một mức độ rất cao, rất tân tiến. Nhân loại vẫn còn một số đông thật sự quan tâm đến tín ngưỡng tôn giáo. Có những thảm họa đáng tiếc đã xảy ra, như là chủ nghĩa khủng bố và những điều tương tự, nhưng đây rõ ràng là vì người ta thiếu một tầm nhìn xa.

Vì vậy, để có những biện pháp ngăn ngừa những điều thiếu lành mạnh này, chúng ta cần xem xét ở hai mức độ. Mức độ thứ nhất là mức độ tạm thời mà nhiều chính phủ hiện đang thực hiện. Mức độ thứ hai là việc lâu dài, nhằm tạo dựng một xã hội từ bilành mạnh hơn. Hiện nay, nhiều tổ chức giáo dục đang chú trọng đến tinh thần bất bạo động và đối thoại nhiều hơn. Đây là những khái niệm quan trọng cần được truyền bá rộng rãi. Việc thế hệ trẻ học hỏi những điều này, để ý niệm về đối thoại và bất bạo động trở thành một phần trong cuộc sống của họ là điều quan trọng.

Bảo Tồn Phật Pháp

Việc bảo tồn Phật Pháp Tây Tạngnguyên nhân cho nền tự do của Tây Tạngliên hệ rất mật thiết với nhau. Trong quá khứ, Tây Tạng luôn luôn là một vùng đất rất rộng lớn, và việc thông tin liên lạc rất khó khăn. Mỗi một vị lama hay tu viện ở trong địa phận riêng của họ và không quan tâm nhiều đến ý tưởng về ý thức cộng đồng. Tôi nghĩ bi kịch của ngày hôm nay xảy ra là vì thiếu sự hợp tác và thông tin trong cộng đồng Tây Tạng, thiếu sự ý thức về trách nhiệm chung. Do đó, từ kinh nghiệm trong quá khứ, chúng ta có thể thấy rằng ý thức cộng đồng và mối quan hệ chặt chẽ là vô cùng cần thiết. Điều quan trọng là các nhóm nhỏ của những người tu tập theo Phật Giáo Tây Tạng ở đó đây trên nhiều quốc gia khác nhau sẽ họp mặt và thảo luận về cách để họ có thể làm việc gần gũi với nhau hơn, và điều này cần diễn ra một cách độc lập, không có sự kiểm soát của một thẩm quyền trung ương nào.

Chúng tađệ tử của Đức Phật, của tất cả các đạo sư Na-lan-đà (Nalanda). Những lời Phật dạy đã được thuyết giảng dựa trên thực tại, và tất cả những tác phẩm của các đạo sư Na-lan-đà tồn tại là để giúp chúng ta thấu hiểu thực tại. Vì sao? Nhiều thảm họa và những điều không ai mong muốn đã xảy ra vì cách tiếp cận phi thực tế. Bất cứ hành động sai trái hay lỗi lầm nào phát sinh đều do sự vô minh về thực tại. Do đó, một phương pháp sai lầm dẫn đến nhiều điều không lành mạnh hơn. Để loại trừ vấn đề này, chúng ta cần phải giải quyết bằng việc thảo luận một cách thẳng thắn, mà điều này chỉ có thể xảy ra trên nền tảng của sự đối thoại, thông tin gần gũi và hợp tác nhiều hơn giữa chúng ta.

Khôi Phục Giới Tỳ Kheo Ni

Hiện nay, ở các nước Phật giáo vẫn còn truyền thống giới luật như Thái Lan, Miến Điện (Burma) và Tích Lan (Sri Lanka), đã không còn các tỳ kheo ni nữa. Trong trường hợp của người Trung Quốc, một vài tu việnĐài Loan (Taiwan) vẫn tiến hành lễ xuất gia cho các tỳ kheo ni, và trong một buổi họp trong chuyến thăm lần thứ hai của tôi ở Đài Loan, một vị tỳ kheo ni người Trung Quốc đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc khôi phục lại giới tỳ kheo ni trong các truyền thống khác.

Đây là thế kỷ hai mươi mốt và tất cả mọi người đều nói về sự bình đẳng. Gần đây, tôi cũng đã bày tỏ rằng trong cộng đồng người Tây Tạng, Trung Quốc hay châu Âu, chúng ta có thể thấy số lượng các phụ nữ thật sự quan tâm đến bất cứ một tôn giáo nào cũng nhiều hơn nam giới, đặt biệt là Phật pháp. Bất cứ lúc nào tôi thuyết giảng ở các vùng Hy Mã Lạp Sơn (Himalaya) cũng có ít nam giới dự thính hơn phụ nữ.

Do đó, chúng ta cần có sự học hỏi và đối thoại với các vị trưởng lão tỳ kheo, và tôi nghĩ rằng chư ni Tây Tạng không nên thực hiện điều này, mà nếu chư ni của Phật giáo Tây phương đảm trách việc này thì có lẽ sẽ hiệu quả hơn. Tất nhiên, không có vị tỳ kheo ni nào giàu có cả, và quý vị cần có tịnh tài, nên tôi muốn đóng góp bằng lợi tức bản quyền tác giả của mình. Tôi không bao giờ viết sách với mục đích kiếm tiền, nhưng tiền tự động đến! Vì vậy nên tôi muốn mở một loại ngân quỹ nào đó cho mục đích này.

(Viện Lưu Trữ Phật Pháp Berzin)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2310)
Cái chết của những người thân yêunghiệp chướng của tôi hay của họ? Cuộc sống của chúng ta luôn tương tác và phụ thuộc lẫn nhau, và...
(Xem: 2773)
Một người đàn ông ngã bệnh và tìm đến bác sĩ. Vị bác sĩ khám cho bệnh nhân này và sau đó viết cho anh ta một toa thuốc trên một mảnh giấy.
(Xem: 2548)
Vô ưu, Phạn ngữ Asoka, Hán ngữ phiên âm A du ca, A thúc ca, A thuật ca… dịch nghĩa là Vô ưu hoa, hoa không ưu tư phiền muộn.
(Xem: 2244)
Tu tâmtìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm.
(Xem: 2669)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2546)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2378)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2681)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2455)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3275)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2334)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2426)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2560)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2480)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2557)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2235)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2595)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3065)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2664)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2731)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 3016)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2579)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2620)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4122)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2789)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3087)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3325)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2300)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2532)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2814)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 3016)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2885)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2630)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2642)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3202)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2602)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2281)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2402)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2494)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2610)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2702)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2766)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3284)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2572)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2137)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2611)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2061)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2837)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2931)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2964)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant