Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tái Sanh

09 Tháng Mười Hai 201619:03(Xem: 8459)
Tái Sanh
                                          TÁI SANH                                           

Nguyên tác: On Reincarnation
Tuệ Uyển chuyển ngữ

tai sanh

 

Những người Phật tử có tin trong việc tái sanh kiếp sau vào những thế giới không phải cõi người không? Bạn có tin rằng bạn sẽ là một vị trời hay một con thú không trong tương lai không? Thần thức sẽ đầu thai vào một thân thể khác của một người khác hay một con thú nào đó không? Có gì khác biệt giữa đầu thai (transmigration) và tái sanh (reincarnation)? Có phải chúng là giống nhau? Có phải nghiệp báo cũng giống như số phận? Những câu hỏi này và hàng trăm câu hỏi tương tự như vậy thường dằn vặt trong tôi.

 

Có nhiều sự thấu hiểu sai lạc tồn tại trong Phật giáo ngày nay, đặc biệt là trong khái niệm về tái sanh. Sự thấu hiểu sai lạc thông thường là một người đã trải qua vô lượng kiếp trước thường là một con vật, nhưng thế nào đấy mà trong kiếp này lại được sanh ra như môt con người và trong kiếp tiếp theo người ấy sẽ lại bị tái sanh như một con vật, tùy thuộc vào lối sống của người ấy.

 

Sự thấu hiểu sai lạc này sinh khởi bởi vì người ta thường không biết – đọc kinh luận hay giáo điển như thế nào. Như được nói rằng Đức Phật đã để lại tám mươi bốn nghìn giáo huấn; biểu tượng cho sự trình bày tùy thuộc vào căn cơ của con người, … Đức Phật đã dạy bảo tùy năng lực tinh thầntâm linh của mỗi cá nhân. Đối với những người dân làng giản dị trong thời Đức Phật, giáo lý tái sanh là một bài học đạo đức đầy năng lực. Sự sợ hãi phải tái sanh vào thế giới thú vật làm kinh khủng nhiều người đã hành động như những con thú trong đời sống của họ.  Nếu nghiên cứu giáo lý này theo văn tự ngày này thì chúng ta phải bối rốichúng ta không thể thấu hiểu một cách rõ ràng.

 

Ở đây là vấn nạn của chúng ta. Một câu chuyện ngụ ngôn, khi chúng ta đọc theo văn tự, nó không hợp lý với tâm thức hiện đại. Do vậy, chúng ta phải nghiên cứu để phân biệt những câu chuyện và huyền thoại từ thực tế. Tuy nhiên, nếu chúng ta nghiên cứu để vượt khỏi hay siêu việt văn tự của những câu chuyện và huyền thoại thì chúng ta có thể thấu hiểu lẻ thật.

 

Người ta sẽ nói “Nếu trường hợp là như vậy tại sao không nói một cách trực tiếp vì vậy chúng ta có thể đi đến nắm bắt ngay lập tức lẻ thật?”  Tuyên bố này là có thể hiểu được, nhưng lẻ thật thì thường không thể diễn tả được. [Phụ giải: Như những con người chúng ta thì bị giới hạn trong việc thấu hiểu “tri kiến của Phật”. Chúng ta không thể nói LẺ THẬT, chỉ từ ngữ VỀ Lẻ Thật] Do thế, người viết và giáo thọ thường nhờ đến ngôn ngữ của sự tưởng tượng để hướng người đọc từ bậc thấp đến bậc cao hơn của LẺ THẬT. Giáo lý tái sanh thì thường được hiểu trong sự soi sáng này.

 

Thứ Gì Không Phải là Tái sanh.

 

Tái sanh không phải là một sự sanh sản vật lý giản dị của một người; thí dụ, Giáp bị tái sanh là một con chó vào kiếp tới. Trong trường hợp này Giáp sở hữu một linh hồn vĩnh cửu vốn bị chuyển hóa hình thể thành một con chó sau khi Giáp chết. Vòng lẩn quẩn này lập đi lập lại mãi. Hay nếu may mắn, Giáp sẽ được tái sanh như một con người. Khái niệm này về đầu thai của linh hồn chắc chắnkhông tồn tại trong Đạo Phật.

 

Nghiệp

 

Nghiệp – karma là một từ ngữ Sanskrt có gốc từ “kri” hay hoạt động hay làm có nghĩa đơn giản là “hành động.” Nó hoạt động trong vũ trụ như vòng phản ứng tương tục của nguyên nhân và kết quả. Nó không chỉ giới hạn nhân quả trong ý nghĩa vật lý mà cũng hàm ý đạo đức. “Một nguyên nhân tốt lành, một hệ quả tốt lành; một nguyên nhân xấu ác, một hệ quả xấu ác” là lời nói thông thường. Nghiệp trong ý nghĩa này là một quy luật đạo đức luân lý.

 

Ngày nay con người đang liên tục phát ra những năng lực vật lýtâm linh trong mọi phương hướng. Trong vật lý chúng ta biết rằng không năng lượng nào bị mất đi vĩnh viễn; nó chỉ thay đổi hình thể. Đây là quy luật bảo tồn năng lượng thông thường . Tương tự thế, hành động tâm linhtinh thần không bao giờ mất đi. Nó chỉ chuyển hóa. Vì thế Nghiệp là định luật bảo tồn năng lượng đạo đức.

 

Bằng hành động, suy nghĩlời nói, con người phát ra năng lượng tâm linh vào vũ trụcon người trở lại bị ảnh hưởng bởi những tác động [vốn của con người] đang hướng tới con người. Con người do thế là người gửi và nhận tất cả những tác động này. Toàn bộ hoàn cảnh bao quanh con người là nghiệp của con người vậy.

 

Với mỗi hành viảnh hưởng người ấy gửi đi và cùng lúc, nhận lại, người ấy đang thay đổi. Sự thay đổi cá nhân này và thế giới mà người ấy đang sống, cấu thành tổng thể nghiệp của người ấy.

 

Nghiệp không nên bị lầm lẫn với số mạng. Số mạng là khái niệm rằng đời sống con người được quy định trước bởi một quyền năng bên ngoài nào ấy, và người ta không thể kiểm soát được gì với số phận của chính mình. Nghiệp trái lại có thể thay đổi được. Vì con người là một chúng sanh hữu tình ý thức cho nên người ta có thể tỉnh thức về nghiệp của chính họ và vì vậy cố gắng để thay đổi môi trường của những sự kiện (nhân duyên). Trong Lời Vàng của Phật chúng ta thấy những lời này, “Chúng ta là kết quả của những gì chúng ta suy nghĩ, nó được thấy trong suy nghĩ của chúng ta và được làm nên bởi suy nghĩ của chúng ta.”

 

Thế thì những gì chúng ta là - thì hoàn toàn lệ thuộc vào những gì chúng ta suy nghĩ. Do vậy, đặc tính quý giá của con ngườilệ thuộc vào những tư tưởng, hành động, và lời nói “tốt lành” của người ấy. Đồng thời, nếu người ấy ôm ấp những tư tưởng xấu ác, thì những tư tưởng ấy tác động không thay đổi người ấy vào những tư tưởnglời nói tiêu cực.

 

Thế Giới

 

Theo truyền thống, Đạo Phật dạy về sự tồn tại của mười thế giới. Trước nhất là Phật và trình độ dần xuống như: Bồ tát (một chúng sanh hướng thành Phật, nhưng hiện diện ở trần gian vì mục tiêu giáo hóa những chúng sanh khác), Độc Giác Phật, Thanh Văn (những đệ tử trực tiếp của Phật), chúng sanhcõi trời, loài người, A tu la (những linh thức đấu tranh), súc sanh, quỷ đói, và chúng sanhđịa ngục.

 

Bây giờ, mười cõi này có thể được xem như không cố định, những thế giới phi vật thể, như những thể trạng tinh thầntâm linh của tâm thức. Những thể trạng này của tâm thức được tạo nên bởi những tư tưởng, hành động và lời nói của loài người. Nói cách khác, là những tình trạng tâm lý. Mười thế giới này là “nội tại hổ tương và bao hàm hổ tương, mỗi thế giới có trong nó chín thế giới còn lại.” Thí dụ, thế giới loài người có tất cả chín thế giới khác (từ địa ngục đến Phật quả). Con người cùng lúc có khả năng của sự vị kỷ thật sự, tạo địa ngục cho chính con người, hay là lòng yêu thương thật sự, phản chiếu tâm từ bi của Đức Phật Di Đà. Chư Phật cũng vậy có chín thế giới khác trong tâm thức, vì vấn đề là làm sao một Đức Phật có thể cứu độ những chúng sanh trong địa ngục nếu tự chính Ngài không nhận ra nổi khổ của chúng sanh và hướng dẫn những chúng sanh ấy Giác Ngộ.

 

Bài Học

 

Chúng ta có thể học một bài học bổ ích từ giáo huấn tái sanh.

 

Bạn đang sống trong thế giới nào? Nếu bạn đói khát quyền lực, tình thương, và tự nhận ra mình, thì bạn đang sống trong thế giới của quỷ đói. Nếu bạn bị thúc đẩy chỉ bằng sự khao khát thân thể con người, bạn đang hiện diện trong thế giới của súc sanh. Xem xét rõ ràng rồi thì bạn sẽ có động cơ và xu hướng của bạn. Hãy nhớ rằng loài ngườitính cách đặc biệt ở vào vị trí trung điểm của mười thế giới; cho nên con người có thể hoặc là đột ngột hạ thấp hay dần dần đi vào địa ngục hay qua nguyên tắc đạo đức, trau dồi và tỉnh giác tâm thức để vươn đến thể trạng Giác Ngộ của Quả Phật.

 

Ẩn Tâm Lộ Tuesday, December 6, 2016

http://www.buddhanet.net/e-learning/reincarnation.htm

 

Bài liên hệ

Điều gì xảy ra khi chúng ta chết? đây là những gì Đạo Phật nói!

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2770)
Một người đàn ông ngã bệnh và tìm đến bác sĩ. Vị bác sĩ khám cho bệnh nhân này và sau đó viết cho anh ta một toa thuốc trên một mảnh giấy.
(Xem: 2543)
Vô ưu, Phạn ngữ Asoka, Hán ngữ phiên âm A du ca, A thúc ca, A thuật ca… dịch nghĩa là Vô ưu hoa, hoa không ưu tư phiền muộn.
(Xem: 2238)
Tu tâmtìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm.
(Xem: 2669)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2542)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2375)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2679)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2453)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3269)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2332)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2423)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2557)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2477)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2556)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2224)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2590)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3062)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2657)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2727)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 3015)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2576)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2619)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4120)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2784)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3082)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3325)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2295)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2527)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2813)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 3015)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2881)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2627)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2640)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3196)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2600)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2281)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2396)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2492)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2608)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2699)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2765)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3280)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2569)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2137)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2609)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2061)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2834)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2929)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2960)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2731)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant