Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Vài Nét Biểu Trưng của Người Cư Sĩ Phật Tử nơi Hải ngoại

16 Tháng Ba 201720:53(Xem: 10406)
Vài Nét Biểu Trưng của Người Cư Sĩ Phật Tử nơi Hải ngoại

Vài Nét Biểu Trưng của Người Cư Sĩ Phật Tử nơi Hải ngoại

 

HT Thich Nguyen Sieu
Hòa Thượng Thích Nguyên Siêu (Ảnh: Sen Trắng)


Tinh thần tu chứng, cũng như phụng sự tha nhân xây dựng quê hương đất nước, Phật Giáo Việt Nam đã khẳng định sự hiện hữu của mình hơn 2000 năm trên suốt dòng lịch sử của dân tộc Việt. Sự hiện hữu đó đã gây giống nẩy mầm từ khi các Thiền sư đặt bước chân đầu tiên lên mảnh đất Lạc Việt, hay từ thời Trung tâm Luy Lâu được khởi xướng. Xuôi theo dòng lịch sử mở nước, dựng nước và giữ nước ấy Phật Giáo Việt Nam đã không ngừng tài bồi, kiện toàn và phát huy những nét cao đẹp, trong sáng tinh ba của đất nước dân tộc. Lý tưởng giác ngộ giải thoát của Đạo pháp được hưng khởi, giá trị của lòng Từ Bi, thương người cứu vật, tinh thần trong sáng của trí tuệ vượt thoát được nêu cao và hoằng dương một cách sâu rộng đến mỗi người, mỗi nhà hay phổ cập chung cho cộng đồng xã hội. Trong công cuộc “Hoằng Pháp Thị Gia Vụ, Lợi Sanh Vi Sự Nghiệp” – Hoằng pháp là việc nhà, lợi sanh làm sự nghiệp – đó có tấm lòng trung kiên với Đạo, có đôi tay cần mẫn hộ trì Phật pháp của người Cư sỹ Phật tử các giới.

Nếu nói rằng, từ thời Đức Thế Tôn còn tại thế đã có bao nhiêu vị Đại thí chủ, bao nhiêu thiện nam tín nữ Phật tử đã phát tâm hộ trì Tam Bảo, bất luận là Vua chúa, Trưởng giả, hay thần dân …. xây dựng tinh xá, phát tâm tứ sự cúng dường, học hỏi giáo pháp và ngay cả tinh thần tu tậpchứng đắc quả thánh đương thời cho đến hôm nay thì lịch sử Phật Giáo Việt Nam hơn 2000 năm qua cũng đã có rất nhiều các cư sỹ Phật tử hy hiến đời mình cho Đạo pháp, bảo vệ ngôi nhà Phật Giáo được vững bền và thăng tiến cùng góp mặt chung với Phật Giáo thế giới.

Người cư sỹ Phật tử đã giữ một vai trò quan trọng trên dòng lịch sử Phật Giáo nước nhà, và dòng lịch sử Phật Giáo đó đã tạo thành niềm tin Đạo pháp truyền thống, tiếp nối nhau từ đời này sang đời khác bất tuyệt. Và cũng chính truyền thống Phật Giáo đó đã giữ gìn người cư sỹ Phật tử sống trọn vẹn trong niềm tin Tam Bảo.

Thế nhưng hôm nay, Phật Giáo Việt Nam đã được hoằng truyền qua các quốc gia trên thế giớichúng ta gọi là Phật Giáo Việt Nam Hải Ngoại, không phân biệt Mỹ Châu, Úc Châu v.v…. thì người cư sỹ Phật tử có cái nhìn tổng quan Phật Giáo Hải Ngoại và đặt mình đúng vị trí trong vai trò hộ pháp

1. Khẳng Định Tín Tâm Đối Với Tam Bảo
Khi chúng ta còn sống nơi quê nhà, theo nề nếp tập tục, theo giáo dục lễ nghi và có thể nói là theo truyền thống lâu đời gia đình theo đạo Phật thì con cháu cứ như vậy mà thừa truyền tiếp nối Đạo pháp trong gia đình và ít có ai đổi đạo. Đó là niềm tin cố hữu của người Phật tử Việt Nam tự nghìn xưa. Nhưng hôm nay, chúng ta là người Phật tử Việt Nam sống nơi hải ngoại – một môi trường mới, một sinh hoạt mới, một văn hóa, một quan niệm mới – chúng ta có còn giữ được niềm tin truyền thống, hay chúng ta phải thấy bằng như thật rằng : Tam Bảo là 3 ngôi báu, cao quý trong thế giankiên định tín tâm nơi 3 ngôi báu ấy để không bị lung lạc hay cuốn hút theo những hình ảnh, màu sắc phù phiếm của các ngoại lực và rồi phản bội lại lý tưởng cao đẹp lâu đời của cha ông.

Tín tâm Tam Bảobước đầu học Phật của người cư sỹ Phật tử. Nếu chúng ta không có tín tâm kiên cố đối với Tam Bảo thì dù cho chúng ta có sưu tra, nghiên cứu Phật pháp giỏi đến đâu cũng không thể gọi là Phật tử và sẽ bị thối tâm khi niềm tin không định hướng.

2. Thích Nghi Với Môi Trường Hiện Sống Mà Tùy Duyên Hộ Pháp
Con người sống trong một xã hội mà nhu cầu đời sống quá cao, thời gian không đủ để phân bố công việc, như thế giới Tây phương ngày nay. Một người có thể làm Hai công việc toàn thời một ngày thì chắc hẳn không còn thời gian cho chính mình để suy tư nghĩ ngợi về đời sống tâm linh. Vì nhu cầu đời sống vật chất, vì sự ràng buộc công việc sở làm mà chúng ta có thể lãng quên hay đánh mất nét đẹp cao quý của tinh thần. Nhưng, nơi đây chúng ta có thể đem những bài học uyên áo giá trị của thế giới Đông phương, áp dụng ngay vào đời sống bận rộn của thế giới Tây phương, nhằm giải tỏa phần nào áp suất những lo âu của cuộc sống cá nhân để tránh bị cuốn hút bởi những nhu cầu vật chất quá cao.

Đó chính là ý thức được giá trị đích thực của sự sống an lành, của niềm bình yên trong tâm hồn, của sự thanh thản trong bận rộn, của sự tri túc trong ý nghĩa thường lạc tự thân. Tinh thần của đạo Phậttùy duyên để thích nghi với hoàn cảnh, môi trường mà không bị chướng ngại khi mình hiện hữu. Tinh thần của đạo Phật là hòa tan, là uyển chuyển – ở bầu thì tròn, ở ống thì dài – là dung hợp như nước với sữa không có sự ngăn chia.

Người Phật tử có được cái nhìn và một nhân sinh quan như vậy, thì đích thực đã kiện toàn cho sự thích nghi môi trường sống, để từ đó mà tùy duyên hộ trì Tam Bảo trong ý thức tự tồn và nhiệt tâm phụng sự.

3. Phát Huy Tinh Thần Tu Học Phật Pháp Qua Các Phương Tiện:
a. Tham gia các khóa tu học được tổ chức tại các Tự Viện.
b. Nghe băng thuyết giảng.
c. Học Phật pháp trên Internet – Paltalk.

Tham học Phật phápbước đầu của người tu Phật. Người Phật tử thông hiểu Phật pháp rồi tu tập Phật pháp tức là làu thông pháp học rồi tiến tới pháp hành thì sự tu tập mới đạt được nhiều kết quả tốt đẹp. Do vậy, sự nghiên tầm giáo điểnnăng lực tài bồi, là tiềm năng đẩy người Phật tử đi xa hơn trên con đường thể nghiệm tinh thần giác ngộ. Có thâm hiểu giáo lý thì mới thâm tín Tam Bảo, mà có thâm tín Tam Bảo thì mới phát huy được những giá trị thù thắng Phật Ngôn.

Người Phật tử có thấm được hương vị giải thoát của giáo pháp thì mới giữ được lòng trung kiên đối với Đạo. Vì giáo pháp là chiếc bè đưa người qua sông, là hóa thành để chúng ta dừng chân trên con đường dài từ phàm tới thánh, là phương tiện thiện xảo đưa chúng ta tới cứu cánh của thành Niết bàn rốt ráo, hay là những gì đem lại sự lợi ích an vui cho một đời sống thường nhật. Là chất liệu xây dựng mái nhà hạnh phúc chân thật của gia đình. Là ý niệm từ hòa tĩnh lặng trong tận cùng thâm tâm của người học Phật. Vậy sự phát huy tinh thần tu học Phật pháp là điều thiết yếu, là mối quan tâm hàng đầu, là trách vụ chung của mọi người Phật tử chúng ta. Trong những điều kiện khả thể đó, chúng ta có thể:

a. Tham Gia Các Khóa Tu Học Được Tổ Chức Tại Các Tự Viện
Trong quá khứ đã có các khóa tu học Phật pháp được tổ chức tại các tiểu bang hay các Châu. Số lượng Phật tử tham gia tu học rất đáng kể. Trong những khóa tu học này, chúng ta thấy tinh thần tu học Phật pháp của Phật tử rất cao và rất chân thành để nghe giáo pháp. Do vậy, các khóa tu học Phật pháp tổ chức tại các Tự viện tại địa phương để cho các Phật tử được thuận tiện tham gia mà không phải mất nhiều thời gian di chuyển. Từ đó người Phật tử được gần gũi với đạo tràng, với Chùa Viện mà thể hiện tính chất bất khả phân, cũng như có được tài sản giáo pháp cho công trình khai triển đời sống tâm linh ngày thêm hoàn thiện.

b. Nghe Băng Thuyết Pháp
Trở về đôi mươi thập niên trước, chúng ta có bao giờ thấy các bậc Tôn túc thuyết giảng và được ghi âm, hay có những bộ kinh được đọc và thâu lại để phân phát cho các Phật tử nghe? Chắc hẳn là không. Nhưng, ngày nay việc thu băng thuyết pháp đã được phổ biến rất rộng rãi trong giới cư sỹ Phật tử. Hầu hết các buổi thuyết giảng, Phật tử đều có băng ghi riêng và sau đó về nhà nghe lại, truyền bá đến bạn bè thân quen. Đây là cách tham học Phật pháp rất tiện lợi cho tất cả mọi giới, vì có thể nghe thuyết giảng ở nhiều nơi, nhiều chỗ : trong lúc lái xe, khi làm việc trong công sở, hay khi nấu ăn dọn dẹp nhà cửa …. thường xuyên nghe thuyết giảng bằng cách này, lâu ngày chầy tháng, tâm hồn người Phật tử được thấm đậm hương vị giáo pháp và thuần hậu trong suối nguồn tĩnh lặng.

c. Hệ Thống Internet – Paltalk
Đây là phương tiện của kỷ nguyên khoa học tiến bộ, rất thích hợp với giới trẻ, và cũng là phương tiện truyền thông nhanh nhất.

Qua những kinh nghiệm thuyết giảng trên hệ thống Internet, chúng tôi nhận thấy có rất nhiều Phật tử thuần thành, rất kính trọng giáo pháp và tha thiết muốn nghe lời Phật dạy. Khi giảng trên Internet, không riêng gì Phật tử Hoa Kỳ mà khắp thế giới đều có thể nghe được.

Chúng tôi đã nhiều lần được tiếp xúc với các anh chị em trẻ, họ rất nhiệt tình và chân thành trong công việc truyền bá Phật pháp trên Internet. Những người bạn trẻ này với kiến thức khoa học kỹ thuật sẵn có, họ có thừa khả năng hoạt dụng Phật pháp phổ biến rộng rãi đến mọi người nếu chúng ta cùng biết cách cộng tác làm việc.

Sự tiến bộ về khoa học truyền thông ngày nay đã đưa mọi người trên thế giới gần lại với nhau hơn, dễ cảm thông hiểu biết nhau hơn, và trao đổi với nhau những điều cần thiết vượt khỏi giá trị thời gian của nhiều thập niên trước. Vậy thì, với những phương tiện truyền thông thuận lợi như thế, chúng ta có thể dễ dàng hơn trong công việc hoằng truyền Phật pháp. Chúng ta cần quan tâm, nghiên cứu phương tiện kỹ thuật và cập nhật hóa thường xuyên theo đà tiến bộ của nền khoa học hiện đại để khỏi bị lùi dần lạc hậu. Nhất là phổ biến rộng rãi tư tưởng siêu phàm, thanh thoát giác ngộ của Đức Thế Tôn đến thế giới Tây phương.

4. Các Tự Viện Tại Địa Phương Là Ngôi Nhà (Tâm Linh) Phật Pháp Của Chính Mình:
Một ngôi chùa nhỏ có thời khóa tụng kinh thường nhật, thuyết giảng định kỳ, niệm Phật công cứ, thọ bát quan trai đúng ngày trong tháng, vẫn có Phật tử tham gia tu học các thời khóa. Dẫu biết rằng có thể không được đông đảo, nhưng với số lượng người cố định, tham gia sinh hoạt đều đặn, chừng mực, thì cũng đủ để thấy rằng người Phật tử đã tự cho rằng ngôi chùa nhỏ tại làng mình là ngôi nhà tâm linh chung cho những người cùng xóm, hay trong cùng một khu vực, thành phố. Tâm tình của người Phật tử được thể hiện qua rổ khoai đầu mùa đem cúng chùa; Chục cam mới hái trong vườn đem dâng cúng Phật, hay đĩa rau lang mới luộc vội bưng qua mời Thầy trụ trì; quả cà, trái ớt đều tưởng nghĩ đến chùa, sốt sắng không quên. Ân nghĩa là nói theo tình đời, còn công đức là nói theo tình đạo. Một tấm lòng đơn sơ cũng đủ nói lên bao nhiêu phước đức đó. Một ngôi chùa nhỏ tại thôn xóm, cách xa thành thị mà duy trì được phải do sự bao dung ấp ủ bằng tấm lòng son của những người Phật tử này. Sự hiểu biết về Phật pháp của họ rất giản dị, mộc mạc : “để đức cho con cháu về sau” bằng tâm tình thuần hậu, đơn sơ, nhưng rất trung kiên vì ngôi chùa làng cũng được xem như ngôi nhà “tinh thần” chung cho xóm làng. Ngôi chùa đó có từ bao đời, dường như không ai để ý, chỉ biết lớn lên đã thấy sự hiện diện của chùa. Mái chùa đó đã che chở, dìu dắt đời sống tâm linh của nhiều đời cha ông của họ cho đến hôm nay và còn nhiều đời con cháu sau này. Cứ thế, người Phật tử mặc nhiên thấy mình có bổn phận trông coi, thăm viếng; sớm hương khói cúng Phật, chiều đánh chuông công phu bái sám xem như là công việc gia đình. Ấy chính là tinh thần hộ pháp, được hòa quyện trong tâm tư người Phật tử thân thương qua bao thế cuộc thăng trầm, thịnh suy, thất đắc. Nhưng niềm tin với ngôi chùa làng được gắn liền, bất di bất dịch, từ đời nọ sang đời kia.

5. Gây Ý Thức Và Tạo Dựng Niềm Tin Phật Cho Con Em – Thế Hệ Kế Thừa:
Con em của chúng ta được sinh ra và trưởng thành trong nền văn hóa Tây phương, hấp thụhọc hỏi phong tục tập quán Âu Tây từ người bản xứ. Do vậy, sự hiểu biết về cội nguồn, quê hương dân tộc của các thế hệ trẻ này rất là hạn hẹp nếu không được các bậc phụ huynh gia tâm chăm sóc.

Vì nhu cầu đời sống, nhiều bậc phụ huynh cũng tất bật với công việc không đủ thời giờ chăm sóc dạy dỗ con cái. Đây cũng là một trong những lý do, các em đánh mất tình cảm gia đình, quên dần cội nguồn dân tộc. Lâu ngày chầy tháng, khó lòng uốn nắn, giảng dạy các em ý thức về nguồn, gần gũi với cộng đồng Việt Nam. Tuy nhiên, chúng ta cũng chưa tuyệt vọng vì cũng có nhiều gia đình vẫn giữ được kỷ cương giềng mối. Là một bậc phụ huynh Phật tử, chúng ta lại càng gia tâm giáo huấn con em hơn nữa, hướng dẫn và gây ý thức cho con em chúng taniềm tin Phật pháp. Tạo điều kiện thuận tiện cho những thế hệ sau này gần gũi với ngôi Tam Bảo. Tập làm Phật sự nơi các Tự viện, để quen dần với không khí nhà chùa mà không cảm thấy xa lạ, ngại ngùng khi hữu sự.

Chúng ta có nhiều phương cách gây ý thức và tạo niềm tin cho con em Phật tử như sinh hoạt Gia Đình Phật tử, dẫn con em đi chùa tụng kinh niệm Phật, tham dự các khóa lễ, tham dự các khóa tu học Phật pháp cuối tuần, tìm đưa cho các em đọc những kinh sách song ngữ… để từ đó, gieo vào tâm thức các em, những chủng tử Phật pháp để ý thức Phật pháp được nẩy nở phong phú trong tâm tư các em. Có được như vậy, thì thế hệ mai sau mới hy vọng tiếp tục hộ trì Phật pháp. Hơn thế nữa, các bậc phụ huynh phải khuyến tấn, khích lệ con em mình xuất gia. Khi đề cập đến vấn đề này có nhiều người sẽ cười và bảo: “Xứ Mỹ này khó có người đi tu.” Hay cha mẹ thì trả lời: “Tùy nó” hay khi nào “đủ duyên”. Đây là những lý luận để đưa đến kết quả là hơn 2 thập niên qua ở hải ngoại, có bao nhiêu phần trăm giới trẻ đi tu? Và Giáo Hội đã đào tạo được bao nhiêu Tăng tài để tiếp nối giềng mối Đạo pháp? Đây cũng có thể là một vấn đề lớn mà chúng ta không thể không quan tâm.

6. Quan Hệ Mật Thiết Giữa Người Tu Sỹ Xuất Gia Và Người Cư Sỹ Tại Gia
Thời Đức Phật còn tại thế, người cư sỹ Phật tử luôn gần gũi với Đức Thế Tôn, cũng như hàng Thánh Chúng. Sự gần gũi này đúng theo tinh thầný nghĩa Ưu Bà TắcƯu Bà Di. Một nam cư sỹ gần gũi với Phật pháp để hộ trì Phật pháp. Người nữ cư sỹ Phật tử gần gũi với Phật pháp để hộ trì Phật pháp. Đó là ý nghĩa cao đẹp và đạo tình thuần hậu của người cư sỹ Phật tử được nuôi dưỡng trưởng thành trong ngôi nhà Phật pháp. Đời sống của người cư sỹ Phật tử không thể tách khỏi chốn Chùa viện, và cũng không thể phân ly với đời sống của chư Tăng. Không khí Chùa viện được sung túc là nhờ bổn đạo Phật tử, khách thập phương lui tới thường xuyên, cúng dường, phát tâm hộ pháp. Từ đó người Phật tử mới cảm thấy có nhu cầu tham dự tu học, lễ lạc, chư Tăng trau dồi kiến thức Phật học để thuyết pháp giảng kinh.

Người cư sỹ Phật tử phải quan hoài đến vị Thầy Bổn Sư của mình, để thể hiện tấm lòng của người đệ tử, biết cung kính, tôn trọng nhớ ơn người hóa độ. Và ngược lại, vị Thầy đã truyền trao giáo pháp, đã thâu nhận đệ tử thì cũng phải có lòng thương tưởng mà khuyến tu, trợ duyên để cho người đệ tử tại gia đó không thối tâm hộ pháp mà luôn luôn tăng tiến trên con đường phụng hành Phật đạo. Hai nếp sống, hai mối tương quan giữa đạo và đời, chẳng thể phân ly.

Đạo Phật có mặt trong thế gian và từ nơi thế gian tu tập để được giác ngộ giải thoát. Phật pháp không thể xa rời khỏi thế gian mà có. Nếu đi tìm giác ngộ giải thoát ngoài thế gian thì giống như đi tìm lông rùa sừng thỏ. Đạo Phật hiện hữu với đời là vì con người, cho con người hay của con người. Con người vì cầu tiến trên lộ trình giác ngộ giải thoát mà con gnười thừa tự giáo pháp để làm nhơn duyên hoán chuyển địa vị phàm phu thành Thánh giả. Đời sống của tục đế được quyện vào lòng chơn đế để được vận dụng mà thành đạt ý vị nhiệm mầu, siêu nhiên, bất nhị.

Thích Nguyên Siêu

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1778)
Trong các kinh Bát nhã ba la mật giảng nói nhiều về tánh Không với những phẩm tính như vô tự tánh, vô sở hữu, bất khả đắc, vô sanh, như huyễn…
(Xem: 1753)
Phật phápgiáo lý của Đức Phật. Gọi là giáo lý tức là nhằm chỉ đến giáo dục với tất cả các phạm trù
(Xem: 2334)
Con người vĩ đại đó, tấm lòng trí tuệ đó, phương pháp giáo dục siêu việt đó của đức Phật đã khiến muôn nghìn trái tim của nhân loại hướng về Ngài
(Xem: 2043)
Định hướng tư tưởng là một vấn đề vô cùng quan trọng trong đời sống sinh hoạt của con người.
(Xem: 1826)
Ngược dòng lịch sử hơn 2.500 năm về trước ở xứ Ấn Độ, trước khi Đức Phật ra đời, nơi đây đã đơm hoa kết trái nhiều hệ tư tưởng khác nhau.
(Xem: 2404)
Con người sinh ra đời, sống và lớn lên trong gia đình được ấp ủ bởi tình thương của cha mẹ, tình anh chị em, tình bà con dòng họ.
(Xem: 1992)
Phải học kinh điển một cách khôn ngoan. Chúng ta biết rằng hơn 400 năm sau khi Bụt nhập diệt, kinh điển mới được chép thành văn.
(Xem: 2124)
Trong rất nhiều phương pháp giảng dạy thì phương pháp định hướng tư tưởng được đức Phật chú trọng sử dụng trong lời dạy của mình.
(Xem: 2303)
Đức Phật dạy về nhân quả thật rõ ràng. Ai gây nhân tạo mười loại nghiệp bất thiện thì chịu quả đi đến ác xứ, không thể đổi khác được.
(Xem: 2623)
Bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ hiện đang được xem là yếu tố quan trọng đối với sự tiến bộ kinh tế, xã hộidân chủ
(Xem: 2645)
Buông là một triết lý nhân sinh của nhà Phật. Triết lý đề cao năng lựctrí tuệ cá nhân trên con đường vạn dặm dứt bỏ luân hồi nghiệp báo “trở thành Thánh Nhân (ariya savaka)”.
(Xem: 2138)
Phước đức là những việc làm lành thiện được làm ở bên ngoài hình tướng như bố thí, cúng dường, từ thiện, giúp ích cho mọi người…
(Xem: 2631)
Phật tử chân chính là người theo Phật, yêu quý Ngài, kính trọng giáo pháp của Ngài và đi theo con đường...
(Xem: 1934)
Thói đời, chúng ta thường hay nghe mọi người than rằng: “Kiếp nhân sinh của ta, là gì - ra sao?”
(Xem: 2057)
Đức Phật dạy được làm người là khó. Mong sao mọi người hiểu được Chánh pháp, cố gắng tu dưỡng để ít nhất được tái sinh trời, người.
(Xem: 2389)
Phật tử chân chính là người theo Phật, yêu quý Ngài, kính trọng giáo pháp của Ngài và đi theo con đường Tám Bước Cao Quý mà Đức Phật đã trải qua biết bao gian khổ mới tìm được.
(Xem: 2905)
Người giữ giới không sát sanh được Thiện thần bảo hộ, tai ách tiêu trừ, tuổi thọ dài lâu, con cháu hiếu thảo hiền lương, mọi chuyện đều may mắn tốt đẹp.
(Xem: 1824)
Phật Giáo đã có mặt trên quê hương Việt Nam kể từ thời bình minh dựng nước của 2000 năm trước.
(Xem: 1722)
Nhà thơ, nhà văn nổi tiếng người Đức Hermann Hesse có lần viết trong tác phẩm “Siddhartha” rằng: “Cả hai đều lắng nghe dòng nước, đối với họ đó không chỉ là dòng nước, mà còn là âm ba của cuộc sống, tiếng nói của cái đang là, tiếng nói của cái sắp là.”
(Xem: 1929)
Chúng ta sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này nhưng không phải ai cũng hiểu được nhờ đâu mà ta sinh ra hay mất đi và vì nhân duyên gì mà ta khổ đau hay hạnh phúc?
(Xem: 1785)
Phật Giáo đã có mặt trên quê hương Việt Nam kể từ thời bình minh dựng nước của 2000 năm trước.
(Xem: 2274)
Nếu một người có nghị lực, tâm trí, trong sáng trong suy nghĩ, lời nóiviệc làm một cách cẩn trọngcân nhắc, kiềm chế các giác quan của mình, kiếm sống theo Luật (Dhamma) và không vô tâm, thì danh vọng và tài lộc của người có tâm đó đều đặn tăng lên.
(Xem: 2453)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
(Xem: 2140)
Hạnh “bố thí” là một trong sáu hạnh của Bồ-tát làm phương tiện đưa đạo vào đời, đem lại niềm vui và xoa dịu nỗi đau của chúng sanh.
(Xem: 1931)
Từ nơi cao rộng mới thấy bao quát toàn cảnh bên dưới. Nào là núi, nào là rừng. Núi xa thì màu nhạt đi, núi gần thì sậm màu đất đá. Rừng thưa thì thấy cả những đường mòn quanh co xuyên qua các thảm lá mục và những tảng đá phong rêu; rừng sâu thì chỉ xanh một màu lá.
(Xem: 1839)
Trong kinh Thừa tự pháp, đức Phật dạy hàng đệ tử nên thừa tự giáo pháp của Ngài chứ không nên thừa tự tài vật của Ngài.
(Xem: 2021)
Người xưa thường nói: “Chúng ta chỉ có thể kiểm soát được hành động, nhưng không thể kiểm soát được kết quả” Xin Hãy Buông Gánh Nặng Xuống.
(Xem: 1783)
Dù những vật hữu tình hay vô tình đều có cội nguồn hình thành, lá rụng về cội, nước chảy về nguồn.
(Xem: 2784)
Khi bàn về cái tôi, người ta thường nói hóm hỉnh rằng: trong cuộc sống, cái tôi mà thệm dấu nặng thì thành TỘI; cái tôi huyền thì thành TỒI; và cái tôi sắc thì thành.. TỐI.
(Xem: 1903)
Muốn đi vào con đường giải thoát an vui thì phải đi qua con đường vô ngã, phải giải trừ, phải giảm nhẹ tình chấp ngã, không đường nào khác.
(Xem: 2243)
Tôi chưa từng chứng kiến sự ra đi của bất cứ ai. Trước khi mẹ tôi trở nên quá yếu, tôi chưa từng thấy ai bệnh nặng cả.
(Xem: 2195)
xuất gia hay tại gia, giàu hay nghèo, nam hay nữ, trẻ hay già cũng đều phải biết điều tiết, chế ngự tâm mình.
(Xem: 2553)
Có người nói tu không cần học Phật Pháp cũng được, chỉ cần học một pháp môn nào đó rồi chuyên tu pháp môn đó thì kết quả còn tốt hơn học nhiều pháp môn mà không chuyên tu.
(Xem: 1875)
Phật tử, chúng ta phải hằng ngày tự thân tu tập, tụng kinh, niệm Phật, ngồi thiền để tự cải tạo tâm mình theo hướng chân, thiện, mỹ.
(Xem: 2045)
Đừng đặt nặng vấn đề sống, chết. Đừng nghĩ đến điều đó. Chỉ cần thanh lọc tâm trí của bạn, thì điều đó sẽ an bài tất cả mọi thứ.
(Xem: 1919)
Trụ là ở chùa; Trì là gìn giữ trông nom chùa. Nghĩa là đối với sự uỷ thác của thập phương tín thí, nhân dân sở tại phải hết tâm, hết sức.
(Xem: 2093)
Đã xuất gia thì không ai là người ác cả, ác Tỷ kheo dùng để chỉ cho những người xuất gia tiến bộ chậm, chưa chuyển hóa các tập khí xấu ác của chính mình.
(Xem: 2672)
Quốc gia nào cũng vậy, bên cạnh những cái đẹp vẫn có cái xấu. Nếu cái tốt nhiều, cái xấu ít thì không đáng lo ngại.
(Xem: 3791)
Trong cuộc sống thường ngày có nhiều người rất dễ rơi vào tình trạng đau khổ, bởi vì có quá nhiều áp lực, nhiều gánh nặng, nhiều ưu tư, nỗi buồn trong lòng.
(Xem: 2345)
Những thành bại, được mất, hơn thua, tranh đoạt, tham vọng và thù hận v.v… sẽ chẳng có giá trị gì nếu như gần kề với cái chết.
(Xem: 2363)
Theo Thế Tôn, người tu mà không có lòng tin thiện pháp là một biểu hiện của bần cùng.
(Xem: 1722)
Cây phong đầu ngõ đã dần dần chuyển sắc lá. Lá vàng chen lá xanh. Lác đác vài chiếc lá phong chỉ mới úa vàng đã rơi quanh gốc, không theo tiến trình sinh trụ hoại diệt của thiên nhiên.
(Xem: 2038)
Các vị thiền sư tu tập theo pháp Phật khẳng định rằng tuy tâm khônghình dáng nhưng chúng ta có thể phân biệt được lúc nào tâm khỏe mạnh và lúc nào tâm bệnh hoạn.
(Xem: 2392)
Hôm trước, tôi có chia sẻ một phương cách để đối trị vọng tưởng, tâm chạy đi lang thang chỗ này chỗ kia bằng cách...
(Xem: 2358)
Khi có một điều không may mắn, bất như ý xảy đến thì đa phần chúng ta đều nghĩ và thậm chí đổ lỗi là do nghiệp.
(Xem: 2205)
Buông bỏ tất cả để tu hành vốn không bị xem là ích kỷ, thậm chí đó là cao thượng nhưng rũ bỏ trách nhiệm trước một thực trạng gia đình ngổn ngang là không thể chấp nhận, đáng bị phê phán.
(Xem: 3195)
Pháp luân nghĩa là bánh xe Phật pháp. Dhamma trong tiếng Pali (Nam Phạn) có nghĩa là Pháp Bảo, lời dạy từ Đức Phật.
(Xem: 2185)
Nghiệp nói cho đủ là nghiệp quả báo ứng, tức đã gây nhân thì có kết quả tương xứng, và quả đến sớm hay muộn khi hội đủ nhân duyên, hội đủ điều kiện.
(Xem: 2578)
Đây là một lời dạy phù hợp với cái nhìn sâu sắc cốt lõi của Phật giáo: rằng chúng ta đau khổ bởi vì chúng ta tin rằng chúng ta có một cái tôi.
(Xem: 2101)
Một nhóm sinh viên đến chùa để tìm hiểu về đạo Phật và kiến trúc chùa nhằm phục vụ cho chương trình học. Có một em tự giới thiệu mình là tín đồ của đạo Thiên Chúa.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant