Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Vị Trí Của Một Ngôi Chùa

20 Tháng Chín 201710:46(Xem: 6949)
Vị Trí Của Một Ngôi Chùa

Vị Trí Của Một Ngôi Chùa

Thích Như Điển

 

Ngôi chùa đối với người Phật Tử Việt Nam chúng ta nói riêng hay những dân tộc khác tại Á Châu nói chung; chùa đóng một vị trí quan trọng trong đời sống của nhân dân, kể cả những người không thuộc tín ngưỡng Phật Giáo. Do vậy từ mấy ngàn năm nay, hình ảnh của ngôi chùa đã ăn sâu vào nề nếp văn học, thi ca, kiến trúc, phong tục, tập quán, lịch sử v.v…nên chùa là “Cái thiện của làng tôi” như nhà văn Thiện Văn Phạm Phú Minh ở Hoa Kỳ đã viết trong tờ Thế Kỷ thứ 21 như vậy.

Hôm đó là ngày Chủ nhật 27 tháng 8 năm 2017 tại địa phương Nantes, Pháp Quốc có buổi giảng của tôi nhân lễ Hoàn Nguyện và Lễ Vu Lan của chùa. Thượng Tọa Trụ Trì Thích Nguyên Lộc đã thỉnh tôi giảng một thời Pháp và tôi đã chọn đề tài nầy. Lúc bắt đầu mới 9 giờ sáng nên số người tham dự không đông mấy, cũng như thời gian chỉ có một tiếng đồng hồ, nên tôi đã không thể triển khai hết được ý của mình muốn nói. Tuy nhiên những điểm chính tôi đã trình bày hết rồi và mọi người nghe hôm đó cũng cảm thấy hoan hỷ. Đầu tiên tôi đi xa hơn qua tận Trung Quốc để thăm viếng quê hương của chư Tổ mà Phật Giáo Việt Nam của chúng ta đã ảnh hưởng bởi những Tông Phái qua việc truyền thừa không ít. Tôi chọn bài thơ “Hàn Sơn Tự” của Trương Kế, một thi nhân rất nổi tiếng ở đời nhà Lương vào thế kỷ thứ sáu thuộc đời Vua Lương Vũ Đế (502-519). Vị trí của Ông trong văn chương thi phú có thể ví với Lý Bạch, Thôi Hộ, Hạ Tri Chương v.v… ở đời nhà Đường. Ở tại Tô Châu có ngôi chùa nầy. Ngôi chùa sở dĩ nổi tiếng nhờ 4 câu thơ và nếu có ai đó đã đi đến Tô Châu rồi thì sẽ xem được chữ Phật thật là tuyệt vời, nhưng được viết không cân xứng mấy. Theo truyền thuyết thì cho rằng: Người viết chữ Phật nầy muốn có đến 3 lượng vàng, nhưng nhà chùa chỉ trả cho Ông ta được hai lượng, nên hai sổ thẳng của chữ Phất (tánh không) không cân xứng  mấy. Đã là giả thuyết thì chúng ta cũng không nên chấp cứ vào đó làm gì, nhưng ở Trung Hoa có rất nhiều chuyện giả sử như vậy.

Bài thơ Phong Kiều Dạ Bạc như sau:

                               Nguyệt lạc Ô Đề sương mãn thiên

                              Giang phong ngư hỏa đối sầu miên

                              Cô Tô thành ngoại Hàn Sơn Tự

                               Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.

Nếu trực dịch ra tiếng Việt thì như thế nầy:

                               Bóng trăng chim quạ, sương đầy trời

                               Sông, cây, chài lưới đối nhau thôi

                                   Cô Tô thành ấy, chùa Hàn Sơn

                                   Nửa đêm tiếng chuông, đến khách thuyền.

Và được dịch sang thể lục bát như sau:

                                   Trăng tà tiếng quạ kêu sương

                                    Lửa chài, cây bến sầu vươn mái chèo

                                    Thuyền ai đậu bến Cô Tô

                                    Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San.

Quả là tuyệt vời với lối thơ câu 6 và câu 8 ấy. Chỉ riêng Việt Nam chúng ta mới có, chứ Haiku của Nhật Bản hay thơ Đường của Trung Quốc cũng không thể sánh bằng. Bởi thế mà có thời Ông Bà của chúng ta đã thể hiện tinh thần nầy qua hai câu chữ Hán như sau:

                                   Văn như Siêu, Quát vô tiền Hán

                                    Thi đáo Tùng, Tuy bất thịnh Đường.

Nghĩa là:

Văn như  Siêu (Lê Văn Siêu) và Quát (Cao Bá Quát) thì trước đời nhà Hán không ai bì kịp.

Thơ đến được như Tùng (Thiện Vương) và Tuy (Lý Vương) thì thời thịnh Đường cũng chẳng  có ai được.

Như vậy dân tộc Việt Nam chúng ta là một dân tộc can cường, cao cả, quyết không chịu đi làm nô lệ cho nước nào, mà ở thời Khương Tăng Hội (280) từ Giao Châu chúng ta, Ngài  đã được Ngô Tôn Quyền mời sang Trung Quốc làm Thầy cho Vua và ở thế kỷ thứ 15, Kiến trúc sư Nguyễn An đã chỉ huy xây cất Tử Cấm Thành cho Vua nhà Minh, và mãi cho đến ngày nay dân tộc ta đã tự hào về những chiến thắng quân Nguyên Mông ba lần của các vua chúa nhà Trần năm 1257, 1285 và 1288. Lịch sử dĩ nhiên không dừng lại ở đó, nhưng chúng ta có quyền hãnh diện về những gì mà Cha Ông của chúng ta đã để lại cho lịch sử đời sauchúng ta không được quên dòng chảy của những thành tích lịch sử nầy.

Đến Trung Quốc, có 4 châu mà thiên hạ đồn rằng không nên thiếu. Đó là Quảng Châu để thăm viếngthưởng thức những món ăn tuyệt hảo tại đây. Hàn Châu để thăm những phong cảnh đẹp và người đẹp của xứ nầy. Liễu Châu để chọn cho mình những thứ gỗ tốt để đóng quan tài khi cái già cái chết sắp đến cận kề và Tô Châu ngoài ngôi chùa Hàn Sơn nầy ra, còn rất nhiều tơ lụa đẹp, mịn màng. Ngày nay Trung Hoa đã thay đổi nhiều rồi, dĩ nhiên là không còn những truyền thuyết hay những giả sử như thời xa xưa nữa, nhưng bài thơ của Trương Kế  đã từng để lại không biết bao nhiêu sự thi hóa chốn nầy, mà ngày nay ngôi chùa và bài thơ vẫn còn tồn tại với thời gian.

Sang đến Việt Nam thì ngôi chùa lại đóng vai trò không những chỉ là nơi chốn để nguyện cầu, lễ bái v.v… mà còn là nơi tiếp các sứ thần của các nước láng giềng khi vào cống sứ vua chúa nước ta, nên mới gọi là chùa Quán Sứ (chỗ ở của các Sứ thần). Ngôi chùa ấy ngày nay vẫn còn ở Hà Nội, nhưng có mấy người Hà Nội trong hiện tại hiểu được vai trò của ngôi chùa nầy từ thuở sơ khai của dân tộc chúng ta? Nguyễn Bính(1918-1966) là một nhà thơ ở thế kỷ thứ 20, Ông đã làm những câu thơ trong bài thơ “Quê tôi” như sau để nói về vị trí của ngôi chùa:

                                     Quê tôi có gió bốn mùa

                                      Có trăng giữa tháng, có chùa quanh năm

                                     Sương hôm, gió sớm trăng rằm

                                     Chỉ thanh đạm thế, âm thầm thế thôi

                                     Mai nầy tôi bỏ quê tôi,

                                     Bỏ trăng, bỏ gió, chao ôi bỏ chùa.

Trăng và gió là những hình ảnh đẹp biết là bao, nhưng thi nhân có thể bỏ được. Chỉ riêng hình ảnh của ngôi chùa làng quê đơn sơ mộc mạc ấy thì thi nhân không thể nào quên được, dầu cho xa quê trong nhiều dặm đăng trình. Do vậy hình ảnh ngôi chùa ấy đã làm cho thi nhân luôn nhớ nghĩ về quê, nơi ấy có mồ mả Tổ Tiên, Ông Bà, Cha Mẹ và nhất là hình ảnh của ngôi chùa trong đêm thanh cảnh vắng, khi trăng rằm đã hiện ra, soi bóng ngôi chùa vào tận tâm cang của những người xa xứ. Rồi Xuân Tâm, Ông có bài thơ rất hay, nói về tiếng chuông chùa và ngôi mộ cũng như người Mẹ đã mất qua bài thơ bất hủ mà nhiều thi nhân đã trích dẫn, và ngay cả trong tác phẩm “Bông Hồng Cài Áo” của Thiền Sư Thích Nhất Hạnh:

….Hoàng hôn phủ trên mộ

                                    Chuông chùa nhẹ nhẹ rơi

                                    Tôi thấy tôi mất Mẹ

                                     Là mất cả bầu trời.

Chỉ có 4 câu sau cùng của bài thơ nói về Mẹ, chúng ta cũng đã có thể hình dung được vị trí của ngôi chùa và tiếng chuông chùa trong đêm khuya hay sáng sớm như thế nào đối với người dân quê Việt Nam chúng ta rồi.

Từ những hình ảnh thân thương của ngôi chùa ở Trung Hoa, Việt Nam…tôi đã hướng mọi người về ngôi chùa Vạn Hạnh tại Nantes, Pháp Quốc, nơi hàng trăm thính chúng đang ngồi nghe tôi nói chuyện về vị trí của một ngôi chùa qua thi ca Việt Nam cũng như Trung Quốc. Ai ai cũng nhìn nhận rằng dưới bàn tay khéo léo của Thượng Tọa Thích Nguyên Lộc, Trụ Trì ngôi chùa nầy đúng 20 năm xây dựng và với 30 năm hiện hữu nơi cõi trời Tây nầy, Vạn Hạnh tại nơi đây rất xứng đáng với tất cả tầm vóc ấy. Ngôi chùa nhỏ, có nóc cong. Bên cạnh đó tuy không có những cội mai già như trong bài thơ “Nhớ Chùa” của Thi Sĩ Huyền Không, tức Cố Hòa Thượng Thích Mãn Giác đã sáng tác vào năm 1949, nhưng những gốc Ô liu cũng có đến mấy trăm năm tuổi thọ đang được trồng cạnh bên hiên chùa. Nào là trúc, sen, bầu, bí, hòn non bộ, chùa Một Cột v.v… Ngoài ra còn có một nhà rường năm gian hai chái rất Việt Nam, nơi đây Thượng Tọa dự định sẽ làm một Trà Thất để tiếp đón khách thập phương và những khách vãng lai người Pháp, nhằm giới thiệu văn hóa của dân tộc mình cho người bản xứ. Quả là quá tuyệt vời cho một ngôi chùa Việt Nam tại Hải ngoại, đang góp phần xây dựng cho đất nước, cho Phật Giáo và cho Dân Tộc Việt Nam trong khi ở xứ người, cũng như sánh vai với hơn 700 ngôi chùa như vậy của Việt Nam chúng ta đang hiện diện trên năm châu lục ngày nay.

Hôm đó trời thật đẹp, không có trăng sao, nhưng những âm thanh huyền diệu của những tiếng Kinh cầu qua Trai đàn chẩn tế bạt độThượng Tọa Thích Hoằng Khai, Tổng Thư Ký của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Âu Châu làm sám chủ với Ban Kinh Sư hùng hậu khắp Âu Châu đã tựu về để giải oan, bạt độ cho những hương linh người Việt và người Pháp  quá vãng trong nhiều hoàn cảnh khác nhau của chiến tranh, cũng như những người lâm nạn bất thường.

Lời Kinh trầm bổng thiết tha như gọi hồn người nơi cõi xa xăm nào đó hãy về đây thính pháp văn kinh, giải thoát được nẻo luân hồi sanh tử. Còn người sống đã đến đây như chạnh lòng nghĩ về thân phận của mình rồi mai đây sẽ ra sao, nếu khônghình ảnh của một ngôi chùa, nơi ấy có vị Sư già đang dõi bước theo đàn con phiêu lạc ở phương trời nào, thì hôm nay đây chính là cơ hội để gợi nhớ về một thuở xa xưa nào đó nơi quê hương mình và đặc biệt nơi xứ Pháp nầy, mà tại đây có được một ngôi chùa như chùa Vạn Hạnh ở Nantes nầy là một diễm phúc vô cùng quý báu cho người đã quá vãng cũng như những người còn tại thế.

Cuối buổi giảng tôi đã lược qua bài thơ “Nhớ Chùa” của cố Hòa Thượng Thích Mãn Giác, mà đa phần chỉ nhớ hai câu cuối của bài thơ mà thôi. Đó là: “Mái chùa che chở hồn dân tộc, Nếp sống muôn đời của Tổ Tông”.

Nhớ Chùa

Từ thuở ra đi vắng bóng chùa

                                    Đường đời đã nhọc chuyện hơn thua

                                    Trong tôi bừng dậy niềm chua xót

                                    Xao xuyến mơ về lại cảnh xưa.

 

                                    Thấp thoáng đâu đây cảnh tượng làng

                                     Có con đường đỏ chạy thênh thang

                                     Có hàng tre gợi hồn sông núi

                                     Im lặng chùa tôi ngập nắng vàng.

 

                                     Có những cây mai sống trọn đời

                                     Bên hàng tùng cúc mãi xanh tươi

                                     Nhìn lên phảng phất hương trầm tỏa

                                     Đức Phật từ bi miệng mỉm cười.

 

                                    Mỗi tối dân quê đón gió lành

                                    Khắp chùa dìu dặt ánh trăng thanh

                                    Tiếng chuông thức tỉnh lan xa mãi

                                    Yên ổn dân làng mọi mái tranh.

 

                                     Trầm đốt hương xông thơm ngọt ngào

                                     Thôn trên xóm dưới dạ nao nao

                                     Dân làng tắm gội lên chùa lễ

                                     Mười bốn ba mươi mỗi tối nào.

 

                                    Tôi nhớ làm sao những buổi chiều

                                     Lời kinh vằng vặc giọng cao siêu

                                     Đây ngôi chùa cổ ngày hai buổi

                                     Cầu nguyện dân làng sống ấm yêu.

 

                                    Vì vậy làng tôi sống thái bình

                                    Sớm hôm tiếng mõ với chuông linh

                                    Sắn khoai gạo bắp nuôi dân chúng

                                    Xây dựng tương lai xứ sở mình.

 

                                       Biết đến bao giờ trở lại quê

                                       Buâng khuâng lòng gợi nhớ nhung về

                                      Tang thương dầu có bao nhiêu nữa

                                      Cũng nguyện cho chùa khỏi tái tê.

 

                                      Chuông vẳng nơi nao nhớ lạ lùng

                                      Ra đi ai chẳng nhớ chùa chung

                                      Mái chùa che chở hồn dân tộc

                                      Nếp sống muôn đời của Tổ Tông.

 

Đó là những câu kết của thời thuyết pháp hôm đó và tôi hẹn lại với mọi người là ở một thời gian thuận tiện nào đó, tôi sẽ điểm lại từng trang Kinh Việt, từng lời thơ và ý vị trong những điển tích Việt Nam qua bài thơ nầy, mà cho đến nay đã trải qua 70 năm lịch sử, hình ảnh ngôi chùa qua thi ca, văn học vẫn còn vang vọng khắp đó đây trên cõi đời sương gió nầy

 

Viết xong vào chiều ngày 19 tháng 9 năm 2017 nhằm ngày 29 tháng 7 âm lịch năm Đinh Dậu nhân lễ vía Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát tại Tu Viện Viên Đức Ravensburg, Đức Quốc.

Sửa lỗi chính tả: Phật Tử Thanh Phi (Úc Châu)

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 13374)
Khi trong ta đã có tâm tuệ, mọi hành xử của ta đều có mặt của tuệ, nên chúng không bị đối ngại bởi những nhận thức hữu ngã...
(Xem: 13981)
Mỗi tuần lễ đều có hai ngày mà chúng ta không cần phải bận tâm lo âu đến và suy nghĩ đến. Ngày thứ nhứt là Hôm Qua...
(Xem: 13225)
Ngài có công lớn đem Phật giáo vào thế giới phương Tây, mang lại hòa hợp giữa các tôn giáo, trồng cây Bồ Đềvị trí tương xứng với nhân loại ngày nay.
(Xem: 13621)
Cuộc sống là phụ thuộc lẫn nhau. Để có được hạnh phúc, một người cần phải cống hiến nuôi dưỡng hết mình cho xã hội và cho tất cả chúng sinh.
(Xem: 13285)
Ờ, thì nôn nao, thì nhớ, thì… nôn nao. Nhớ hình bóng quê nhà, là nhớ mẹ. Nhớ lúc mẹ lật đật chạy từ trong nhà ra ngõ đón mình về.
(Xem: 13195)
Một vị Bồ tát đạt được giải thoát như một vị a la hán bồ tát trên con đường trở thành một vị Phật. Nhưng ngài không dừng ở đấy; ngài sẽ hoạt động xa hơn để đạt đến giác ngộ.
(Xem: 13003)
Nói đến Tết, chúng ta thường nghĩ tới một dịp vui đầu năm mới - Tết Nguyên đán (còn gọi là Tết cả)...
(Xem: 12506)
Kính đa tạ quý Ôn giảng sư, quý thầy, quý ni sư, quý sư cô luôn hiện diện đầy đủ trong lớp học để thời gian an cư ngắn ngủi tại PHVQT năm 2011
(Xem: 14116)
Đời sống của ngài hàng ngày theo một thời khóa giản dị. Ngài dậy trước khi hừng đông, một thời gian hoàn toàn êm ả và tĩnh lặng thật tuyệt hảo để thiền quán.
(Xem: 12411)
Mỗi ngày được lên trang nhà và đọc một câu chuyện đêm khuya cũng giúp mình tịnh tâm học hỏi được chút ít gì làm hành trang cho chính mình trên con đường tu tập nên mình vui lắm.
(Xem: 12980)
Với dân số khoảng hơn 6 triệu người và có tới 1.400 ngôi chùa lớn nhỏ, Lào là nước có tỉ lệ chùa cao nhất thế giới so với số dân.
(Xem: 13334)
Phật giáo vượt qua giới hạn của cá nhân-nhận ra sự thật của sự liên kết lẫn nhau có nghĩa là cùng tham gia với mọi người trong một thế giới rộng lớn hơn.
(Xem: 11706)
Giới trí thức Phật giáo luôn quan tâm đến nghiệp vận tôn giáo mình trên quê hương cũng như nơi đất khách. Họ vẫn ngồi lại mỗi khi có dịp, nỗi ưu tư được nêu ra...
(Xem: 12572)
Về phương diện tinh thần, hơi thở còn có khả năng làm lắng dịu và chữa trị những cảm xúc tuyệt vọng, lo âu, sợ hãi, bất an v.v... trong ta được bình phục.
(Xem: 13255)
Con người ta nếu sống chân thành, thật thà với chính mình, với người thì cái tâm ấy như vàng, như kim cương nên không sợ chi lửa.
(Xem: 13108)
Văn học Phật giáo có kể về những kỹ nữ là những Phật tử thuần thành. Trưởng lão ni kệ có kể về hai kỹ nữ, cũng là hai chị em Vimala và Sarama.
(Xem: 19435)
Thủ Dầu Một đầu tiên là địa danh vùng, rồi địa danh các đơn vị hành chính các cấp: hạt TDM (1869), tỉnh TDM (1899), thị xã TDM (1975).
(Xem: 13355)
Dù lý giải như thế nào đi nữa thì cũng dễ dàng nhận thấy là mối quan hệ tình cảm của con người là cái quan trọng nhất vượt lên trên cả tiền bạc, vật chất...
(Xem: 13521)
Ta phải thực tập chính niệm để duy trì cái thấy vô thường; cái thấy các pháp tương tác duyên khởi ở trong thế gian, đang bị vô thường bức hại...
(Xem: 17670)
Trước miếu Quan Âm mỗi ngày có vô số người tới thắp hương lễ Phật, khói hương nghi ngút. Trên cây xà ngang trước miếu có con nhện chăng tơ...
(Xem: 14091)
Tại biên giới của tỉnh Tây Khương sát với Tây Tạng có một bà lão sống cô độc, chồng và đứa con trai duy nhất của bà đã qua đời.
(Xem: 12944)
Một vị thiền sư nọ cất túp lều tranh trong rừng sâu sống ẩn dật tu luyện không tranh đua với đời. Thiền sư tiếp xúc với cỏ cây nhiều hơn con người cho nên tâm hồn ông rất thanh thản vô vi.
(Xem: 14026)
Thanh lọc tâm mình bằng cách thiền tập hoặc niệm Phật để tiếp xúc với năng lượng tĩnh lặng từ bên ngoài lẫn bên trong là cách làm của người tin Phật, có trí.
(Xem: 12139)
Có một thứ mà khi càng cho đi thì càng có thêm nhiều, đó là lòng tốt. Có một loại năng lượng nào càng sử dụng, thậm chí càng xài phí thì càng có nhiều thêm, đó là lòng tốt.
(Xem: 11873)
Thời giansự thật, nơi bôi xóa, giấu che và hiển lộ tất cả. Trong nghĩa ấy, thời gianlịch sử. Lịch sử được làm nên từ những ánh rực rỡ và những lặng thầm, trên đường đi của nhân loại.
(Xem: 13079)
Một ngày nọ, chàng trai muốn đi xuất gia. Chàng nói ý định này với người bạn thanh mai trúc mã của mình. Nàng thiếu nữ nghe xong thoáng buồn và hỏi lại...
(Xem: 13365)
Sơ suất có thể làm hại mình, hại người, nhất là trong những quyết định quan trọng. Đó là bài học tôi nghe được từ một người thầy.
(Xem: 11928)
Dầu cuộc đời có bận rộn và nhiêu khê đến đâu, hãy nhớ dừng lại để thở, để nhìn nụ cười trong những đóa hoa, mây bay trong tách cà phê thơm...
(Xem: 17032)
Công việc sẽ chiếm phần lớn cuộc đời bạn và cách duy nhất để thành công một cách thực sự là hãy làm những việc mà bạn tin rằng đó là những việc tuyệt vời.
(Xem: 12396)
Đức Phật đã khẳng định rằng nữ giới và nam giới đều bình đẳng trong khả năng chứng ngộ, và vì lý do đó Ngài đã cho phép họ được xuất gia...
(Xem: 12718)
Hè đến, những cánh phượng nhuộm đỏ một góc đường. Ta lại bồi hồi nhớ lại ký ức xưa cũ. Con đường đất, mái nhà xiu vẹo...
(Xem: 12293)
Hành trang đi vào trong vô thường để tìm chân thường, biết huyễn mộng vẫn đi vào huyễn mộng, để tìm lại con người chân thật, con người của thảnh thơi, thanh tịnh, hạnh phúc...
(Xem: 13990)
Mỗi bước chân và mỗi cái nhìn của mình có thể chế tác được năng lượng an lạc. Mình bước tới và mình biết là mình đang chạm vào tịnh độ.
(Xem: 12370)
Hạnh phúc luôn có mặt trên những chặng đường ta đi qua chứ không phải ở cuối con đường. Hạnh phúc có thể được tìm thấy trong từng phút giây ta sống...
(Xem: 11727)
Nếu mọi người, mọi nhà đều thực hành Luật Nhân Quả họăc biết sợ Nhân Quả thì thế giới này biến thành một Cung Trời mà chẳng cần phải bôn ba tìm kiếm Thiên Đường ở đâu khác.
(Xem: 12475)
Chư Phật Bồ tát xuất hiện ở đời vì chúng sinh mà khởi đại bi tâm, khải mê khai ngộ. Các Ngài đã phát đại nguyện ban vui cứu khổ, phụng sự cho chúng sinh mà không quản nại mọi khó khăn...
(Xem: 12962)
Khi bạn đau khổ, có những vấn đề, mắc bệnh ung thư, bệnh aids, rắc rối trong mối quan hệ, bất kỳ điều gì, hãy nghĩ: “Nguyện đại dương khổ đau sinh tử của tất cả chúng sinh khô cạn.”
(Xem: 13061)
Ở đây, mình đi tìm mùa xuân của lòng người, lòng mình, nên chỉ cần ngồi thật im, thật vững chãi và chế tác năng lượng mùa xuân...
(Xem: 12257)
Để có được sự trưởng dưỡng nội tâm, chúng ta cần phải sống chậm lại, chú ý lắng nghe nhiều hơn, nói ít đi, quan tâm nhiều hơn tới tiếng nói của nội tâm mình...
(Xem: 12308)
Trong cuộc sống cần rất nhiều thiện hạnh để nâng đỡ cho tinh thầnđời sống của chúng ta. Nếu không có những thiện hạnh, chúng ta sẽ dễ sao nhãng tinh thần...
(Xem: 11709)
Một phê bình luôn phải đặt vững trên nền tảng thực tại riêng của nó – thực tại mà nhãn quan của nó làm phát lộ, cái thực tại đặc thù bởi trong cách thức đặc thù mà liên hệ đến cái thực tại...
(Xem: 11772)
VNPG không phải là một phong trào hay một giai đoạn làm ăn phát đạt nhờ mua bán giỏi, mà là một nền tảng đạo đức chuyên biệt, dung chứa những tâm nguyện cao cả...
(Xem: 12095)
Chúng ta may mắn có một đạo Phật, dưới ánh sáng của Đấng Giác ngộ với tấm lòng Từ bi và Trí tuệ, xuất hiện trên cuộc đời uế trược nầy vì lợi ích cho trời người.
(Xem: 13120)
Lắng nghe mọi người, để hiểu và thương. Đó cũng là một cách nói rằng: tôi luôn có mặt cho mọi người, nhất là những người đang khổ đau.
(Xem: 12649)
Khi mình niệm hơi thở, nụ cười, là khi mình làm cho tâm mình lắng dịu, như hồ nước không gợn sóng, có nghĩa là mình có định.
(Xem: 13109)
Giác ngộ mới là cái cần làm, trong đó trước tiên là hiểu mình, đến hiểu bản chất của cuộc sống vạn vật, rồi quay lại với cuộc sống sôi động.
(Xem: 11674)
Thịt bò nói riêng và súc vật nuôi để làm thức ăn cho con người nói chung đã và đang tổn hại môi trường sinh thái.
(Xem: 14892)
Đức Đạt Lai Lạt Ma đã làm rõ ràng việc chúng ta có thể tha thứ ra sao nhưng vẫn tin rằng trong ý chí tự do chọn lựa, tất cả chúng tathể không phải hành động tổn hạithực hiện những điều tốt đẹp.
(Xem: 13857)
Có một ý thức trực giác về nghiệp quả - một sự hiểu biết rằng hạnh phúc, và bất hạnh của chúng ta tùy thuộc vào hành động của chúng ta...
(Xem: 14017)
Con rùa nói: “Tôi không biết chiếc vòng vàng ở đâu? Tôi không thể nhìn thấy, nhưng tôi đã nghe nói rằng tinh túy của toàn bộ Phật giáo là sự phát triển Bồ đề tâm...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant