Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Từ Bi –thiện Ý

21 Tháng Mười Một 201705:07(Xem: 7445)
Từ Bi –thiện Ý

TỪ BI –THIỆN Ý

Tỳ Khưu Thanissaro
 
Diệu Liên Lý Thu Linh

 
Từ Bi –thiện Ý

Tỳ Khưu Thanissaro (Geoffrey DeGraff) là một tu sĩ người Mỹ theo truyền thống tu trong rừng của Thái Lan.  Sau khi tốt nghiệp Đại học Oberlin năm 1971 với chuyên ngành về Lịch sử Tri thức Âu Châu, ông theo học thiền với Thiền sư Ajaan Fuang Jotiko ở Thái Lan và xuất gia năm 1976.  Năm 1991, ông giúp xây dựng Lâm Tự Viện ở San Diego, California, nơi ông là trụ trì.

Ông là một dịch giả, người viết năng nổ.  Nhiều tác phẩm của ông có thể được tìm thấy trên mạng có tên: www.accesstoinsight.org

***

Thầy tôi, Ajaan Fuang, có lần khám phá ra có một con rắn đã bò vào phòng mình.  Mỗi lần bước vào phòng, Sư thấy nó chui vào cái khe sau tủ đựng đồ.  Và dầu ông đã cố tình để cửa mở cả ngày, rắn cũng không chịu ra khỏi phòng.  Họ đã sống chung như thế trong ba ngày.  Ông đã rất cẩn thận không làm kinh động rắn hay làm nó cảm thấy bị đe dọa bởi sự có mặt của ông.  Cuối cùng vào buổi chiều của ngày thứ ba, khi ngồi thiền, ông đã quán tưởng đến con rắn.  Ông thầm nghĩ, “Này rắn, không phải là ta ghét ngươi.  Ta không có ý xấu gì về ngươi.  Nhưng tâm chúng ta vận hành khác nhau.  Vì thế, ta rất dễ hiểu lầm nhau.  Bên ngoài rừng kia có rất nhiều chỗ cho ngươi sống mà không phải sống e dè với ta”.  Khi ông ngồi thiền rải tâm đến cho rắn như thế, nó đã bỏ đi.

Lần đầu tiên nghe Ajaan Fuang kể chuyện này, tôi dừng lại, quán xét sự hiểu biết của mình về từ bi (metta) như thế nào.  Từ bi là ước muốn được hạnh phúc –hạnh phúc thực sự- và đức Phật dạy ta phát triển ước muốn này cho bản thân và cho người: “Với tâm từ cho toàn thể vũ trụ, vun trồng một trái tim không giới hạn”. (Sn 1:8)[1]  Nhưng cảm xúc nào sẽ đi cùng với ước muốn đó?  Nhiều người định nghĩa đó là “tình thương, sự tử tế” (lovingkindness), ám chỉ một ước muốn được có mặt vì người khác: để yêu thương, để ban tặng sự âu yếm, vỗ vềbảo vệÝ tưởng về việc cảm thấy yêu thương tất cả mọi người nghe rất cao cả, đẹp đẽ.  Nhưng khi bạn thực sự dừng lại để nghĩ về tất cả mọi chúng sanh trong vũ trụ, thì có rất nhiều người -giống như con rắn đó- sẽ phản ứng lại với lòng tử tế của ta bằng tâm nghi ngờ và sợ sệt.

Thay vì đón nhận lòng từ của bạn, họ chỉ muốn được để yên.  Kẻ khác thì lại cố tình lợi dụng lòng tử tế của bạn, coi đó là dấu hiệu của người yếu đuối hay sự đồng thuận của bạn về mọi việc họ muốn làm.  Trong tất cả những trường hợp này, liệu tâm từ bi của bạn có mang đến hạnh phúc thực sự cho ai không.  Trong trường hợp này, hẳn là bạn không thể không nghĩ liệu những lời dạy của Đức Phật về từ bi có thực sự khôn ngoan hay thực tế?

 Qua cách Ajaan Fuang đối xử với con rắn, tôi nhận thấy metta không hẳn là thái độ từ bi.  Đúng hơn, đó là thái độ của thiện ý -mong muốn điều tốt lành cho người khác, với ý thức rằng hạnh phúc thực sự là điều mà mỗi chúng ta phải tự khám phá ra cho mình, và đôi khi cách dễ nhất là mỗi người đi theo hướng của mình.

Ta cần hiểu metta từ nguồn gốc kinh tạng Pali, đầu tiên chính là từ từ ngữ đó.  Trong ngôn ngữ Pali, pema mới có nghĩa là tình thương, trong khi metta, liên hệ với từ mitta, có nghĩa là bạn.  Đức Phật không khuyên ta phát triển tình yêu phổ quát (universal pema) –vì Ngài biết là tình thương yêu có thể dễ dàng đưa đến hận thù khi người ta thương yêu bị người khác đối xử tệ- nhưng Đức Phật khuyên ta nên phát triển tình bạn phổ quát (universal metta): sự thân thiện cho tất cả mọi người.  Sự thân thiện được coi như thiện ý qua bốn đoạn trong kinh tạng khi Đức Phật ban cho ta những câu để ghi nhớ trong tâm khi phát triển những tư tưởng từ bi.  Các câu này cho ta những hướng dẫn rõ ràng nhất của ngài không chỉ về các cảm xúc cao đẹp hàm chứa trong metta, mà cũng khuyên ta cần phải hiểu ý nghĩa của hạnh phúc, giúp ta hiểu tại sao việc phát triển lòng từ đến với tất cả mọi người là điều khôn ngoan và thực tế.

Nhóm câu đầu tiên này ở trong đoạn kinh khi Đức Phật khuyên ta nên có những suy tư như thế nào để chống lại với ác ý.  Các câu kệ này được tụng đọc mỗi ngày trong các cộng đồng Nguyên thủy ở khắp nơi trên thế giới:

Mong cho tất cả mọi chúng sinh –không thù oán, không bị áp bức, không phiền não –dễ dàng tự chăm sóc mình[2]. –AN 10:176

Hãy xem xét câu cuối cùng: “Mong là họ dễ dàng tự chăm sóc mình”.  Ta không nói là ta sẽ luôn có mặt bên tất cả mọi chứng sanh.  Hơn nữa đa số đều sẽ cảm thấy hạnh phúc hơn khi biết rằng họ có thể dựa vào bản thân hơn là dựa vào người khác.  Có lần tôi nghe một vị giảng sư nói rằng ông không muốn sống nơi không có khổ đau, vì như thế thì ông không thể hiện được tâm từ bi của mình –là một ước muốn cực kỳ ích kỷ, nếu bạn suy xét thấu đáo về nó.  Ông ta muốn người khác khổ đau để ông có thể vui vì được thể hiện tâm bi mẫn?  Một thái độ tốt hơn sẽ là, “Mong cho mọi chúng sanh đều được hạnh phúc.  Mong cho họ có thể tự lo cho mình được bình an”.  Như thế họ có thể hưởng hạnh phúc của sự tự túc và độc lập.

Một số câu kệ từ bi khác ở trong kinh Từ Bi Karaniya[3]Bài kệ mở đầu bằng ước muốn được hạnh phúc giản đơn:

Không bỏ sót một hữu tình nào 
Kẻ ốm yếu hoặc người khỏe mạnh 
Giống lớn to hoặc loại dài cao 
Thân trung bình hoặc ngắn, nhỏ, thô.

Có hình tướng hay không hình tướng 
Ở gần ta hoặc ở nơi xa 
Đã sanh rồi hoặc sắp sanh ra 
Cầu cho tất cả đều an lạc.

Bài kệ lại tiếp tục mong cầu là mọi chúng sanh đều tránh khỏi mọi nguồn gốc của khổ đau:

Với ai và bất luận ở đâu 
Không lừa dối chẳng nên khinh dễ 
Lúc căm hờn hoặc khi giận dữ 
Đừng mưu toan gây khổ cho nhau.

Khi đọc tụng các câu kệ này, ta không chỉ mong chúng sanh được hạnh phúc, mà còn mong là họ tránh được những hành động đưa đến ác nghiệp, đưa đến khổ đau cho bản thân.  Ta nhận thấy rằng hạnh phúc phải dựa vào hành động: Người muốn tìm hạnh phúc chân thực, phải hiểu nhân của hạnh phúc, và hành theo đó.  Họ cũng phải hiểu rằng hạnh phúc thực sự không đem lại tai hại.  Nếu hạnh phúc dựa trên điều gì có hại cho người khác, thì nó không vững bền.  Người bị hại chắc chắn sẽ tìm cách để trả đũa, để phá hoại hạnh phúc đó.  Ngoài ra sự cảm thông còn có đặc tính hiển nhiên như sau: nếu ta thấy người khác khổ đau, ta cũng đau xót.  Nếu ta có chút cảm xúc nào, ta khó thể cảm thấy hạnh phúc khi ta biết rằng hạnh phúc của mình đang gây đau khổ cho người khác.

Vì thế, khi bày tỏ thiện ý, ta không nói rằng ta sẽ luôn có mặt ở đó với họ.  Ta mong rằng tất cả chúng sanh sẽ khôn ngoan để biết tự lực, tự tìm hạnh phúc cho bản thân.

Kinh Tâm Từ còn tiếp tục nói rằng khi ta phát triển thái độ này, ta muốn bảo vệ nó như người mẹ bảo vệ đứa con duy nhất của mình.

Như mẹ hiền thương yêu con một 
Dám hy sinh bảo vệ cho con 
Với muôn loài ân cần không khác 
Lòng ái từ như bể như non.
Không vuớng mắc, oán thù, ghét bỏ.


Nhiều người hiểu lầm đoạn kệ này – nghĩ rằng Đức Phật khuyên ta phải thương yêu tất cả chúng sanh giống như cách người mẹ thương đứa con duy nhất của mình.  Nhưng thật ra Đức Phật không thực sự nói thế.  Trước hết Đức Phật không hề nói đến từ “thương yêu” (cherish) ở đây.  Và thay vì so sánh giữa việc bảo vệ đứa con duy nhấtbảo vệ các chúng sanh khác, Ngài lại so sánh giữa việc bảo vệ con và bảo vệ thiện ý của mình.  Điều này tương ưng với những lời dạy khác của Ngài trong kinh tạng.  Không có nơi nào trong kinh tạng Ngài khuyên chúng ta bỏ thân mạng để chống lại mọi điều ác, điều bất công trên thế giới, nhưng Ngài tán thán các đệ tử khi họ sẵn lòng từ bỏ mạng sống cho giới luật“Giống như biển lặng, không nhấn chìm sóng biển, các đệ tử của ta cũng không –dầu có bỏ thân mạng- nhấn chìm các giới luật mà ta đã đề ra cho họ”[4]. –Ud 5:5

Những câu này cũng mang một thông điệp, một tình cảm tương tự: rằng ta cần phải dốc lòng vun trồngbảo vệ thiện ý của mình để bảo đảm rằng các ý hướng thiện của ta không lay chuyển.  Vì ta không muốn làm hại đến ai.  Điều ác có thể dễ dàng xảy ra khi lòng từ của ta bị lay chuyển, vì thế ta cần phải làm bất cứ điều gì để luôn bảo vệ thái độ này.  Đó là lý do tại sao, khi Đức Phật nói ở cuối bài kinh rằng ta cần phải quyết chí thực hành loại chánh niệm này: chánh niệm để ghi nhớ trong tâm ước muốn mọi chúng sanh đều được hạnh phúc, để bảo đảm rằng tất cả mọi hành động của ta đều vì mục đích này.

Đó là lý do tại sao Đức Phật khuyên ta phải phát triển các thiện ý trong hai trường hợp đặc biệt quan trọng –và đặc biệt khó- để duy trì ý hướng thiện: khi người khác làm hại ta, hay khi ta cố ý làm hại người khác.

Nếu kẻ khác hại ta bằng lời nói hay hành động –“ngay như những kẻ đạo tặc hạ liệt, dùng cưa hai lưỡi mà cưa tay, cưa chân;”- Đức Phật khuyên ta luyện tâm như thế này:

 “Ta sẽ giữ tâm không biến nhiễm; ta sẽ không nói lời ác độc.  Ta sẽ duy trì sự thông cảm, với tâm từ, không có nội tâm sân hận.    Ta sẽ luôn rải tâm từ đến họ, bắt đầu từ họ, ta sẽ rải tâm từ khắp thế giới –quảng đại, vô biên, không hận, không sân[5]. –MN 21

Khi làm được như thế, Đức Phật bảo rằng, ta đã khiến tâm ta bao la như sông Hằng hay rộng lớn như trái đất –nói cách khác, nó lớn hơn các ác hại mà những kẻ kia đang làm hay đe dọa sẽ làm với ta.  Chính Đức Phật đã áp dụng giáo lý này nơi bản thân sau khi Devadatta mưu toan giết hại ngài.  Như khi ngài nói với Ma vương –người đến để chế ngạo ngài khi ngài đang an dưỡng vết thương- “Ta nằm xuống với lòng thương xót muôn loài”[6]. (SN 4:13)

Khi ta có thể duy trì tâm rộng mở trong lúc đau đớn, cái người khác hại ta không còn quá sức chịu đựng, và ta khó lòng phản ứng một cách tiêu cực.  Ta bảo vệ -cho bản thân và cho người- khỏi bất cứ hành vi tiêu cực nào mà ta có thể làm.

Còn đối với những khi ta cố ý làm hại người, Đức Phật nhắc nhở ta phải nhớ rằng việc sám hối không thể thay đổi cái ác, nên nếu cần xin lỗi, ta xin lỗi.  Trong bất cứ hoàn cảnh nào, ta phải quyết không lặp lại hành động ác đó nữa.  Sau đó rải tâm từ đến muôn nơi.

Việc này giúp ta thành tựu một số điều.  Nó nhắc nhở ta về sự thiện lành của bản thân để ta không –nhằm bảo vệ tự ngã- quay trở lại việc không chấp nhận mình đã làm điều gì tai hại.  Nó làm mạnh thêm quyết tâm không làm hại ai.  Và nó buộc ta phải quán sát hành động của mình để thấy được ảnh hưởng thực sự của chúng: nếu ta có những thói quen gây tai hại, ta nên buông bỏ chúng trước khi chúng gây tổn hại thêm.  Nói cách khác, ta không muốn thiện ý của ta chỉ là một ý nghĩ buông lung, mơ hồ.  Ta muốn ứng dụngrốt ráo, từng li từng tí vào tất cả mọi giao tiếp với người.  Như thế thiện ý của ta mới chân thật.  Và nó thực sự có ảnh hưởng, đó là lý do khiến ta phát triển thái độ này ngay từ buổi đầu: để bảo đảm rằng nó thực sự cổ vũ cho tư duy, lời nói và hành động của ta hầu dẫn đến hạnh phúc, vô hại cho tất cả.

Cuối cùng có một đoạn kinh trong đó Đức Phật dạy các đệ tử tụng để rải tâm từ đến tất cả loài rắn và các loài bò sát khác.  Chuyện là có một vị tu sĩ hành thiền trong rừng và bị rắn cắn chết.  Các vị đệ tử khác đem chuyện này kể lại với Đức Phật và Ngài trả lời rằng nếu vị tu sĩ kia đã rải tâm từ đến tất cả bốn đại gia đình của loài rắn, thì con rắn nọ đã không cắn ông.  Lúc đó Đức Phật dạy các vị đệ tử một bài kệ bảo vệ để rải tâm từ không chỉ đến với loài rắn, mà còn cho tất cả mọi chúng sanh.

Ta hãy có từ tâm
Với các loài không chân,
Ta hãy có từ tâm
Với các loài hai chân,
Ta hãy có từ tâm
Với các loài bốn chân,
Ta hãy có từ tâm
Với các loài nhiều chân.

Mong rằng loài không chân
không có làm hại ta.
Mong rằng loài hai chân
không có làm hại ta.
Mong rằng loài bốn chân
không có làm hại ta.
Mong rằng loài nhiều chân
không có làm hại ta.

Mong chúng sanh hữu tình
Toàn thể mọi sinh vật,
Mong chúng thấy hiền thiện,
Chớ đi đến điều ác.

Đức Phậtvô lượng, Pháp là vô lượng, chúng Tăngvô lượng.

Có lượng là loài bò sát: rắn, bò cạp, rết, nhện, cắc kè & chuột.  Ta đã làm sự hộ trì.  Ta đã làm sự che chở. Mong các loài hữu tình sẽ bỏ đi[7]AN 4:67

Câu cuối cùng trong bài kệ về tâm từ này cho thấy sự thật là việc chung sống cùng nhau với mọi loài thường mang lại khó khăn –nhất là khi chúng sinh thuộc nhiều giống loài có thể xâm hại nhau –và phương cách tốt đẹp nhất cho tất cả những loài có liên quan là sống xa cách, không xâm hại nhau.

Những cách thể hiện lòng từ khác nhau này cho ta thấy tâm từ không nhất thiếttính chất của tình thương yêu.  Tâm từ tốt hơn nên được coi như là thiện ý, vì hai lý doĐầu tiênthiện ýthái độ mà ta có thể thể hiện với tất cả mọi người mà không sợ phải mang tiếngđạo đức giả hay thiếu thực tế.  Không phải vì ta giúp đỡ mà người khác hạnh phúc, họ sẽ thực sự hạnh phúc hơn nếu đó là kết quả của chính hành động thiện xảo của họ.  Hạnh phúc của sự tự lực lớn hơn bất cứ thứ hạnh phúc nào đến từ sự phụ thuộc.

Lý do thứ hai, thiện ý là một cảm xúc khôn ngoan để đối phó với những người có thái độ vô ơn đối với sự tử tế của ta.  Có thể có những người bạn đã xâm hại trong quá khứ nên họ không muốn có bất cứ liên hệ nào với bạn, vì thế sự thân thiết, thương yêu của bạn thực ra là nguồn gốc khổ đau cho họ, hơn là niềm vui.  Cũng có những người khi thấy bạn muốn thể hiện tình thương yêu đến với họ, thì họ nhanh chóng lợi dụng bạn.  Và cũng có rất nhiều sinh vật trên đời sẽ cảm thấy bị đe dọa bởi sự biểu lộ tình cảm quá ào ạt của con người.  Trong những trường hợp này, một cảm nhận từ xa về thiện ý của ta –rằng ta tự nguyện không xâm hại những người này hay những chúng sanh này- sẽ tốt hơn cho tất cả mọi người liên quan.

Như thế không có nghĩa là tình thương yêu không bao giờ là một thể hiện phù hợp của thiện ýĐơn giản là bạn phải biết khi nào nó phù hợp và khi nào không.  Nếu bạn thực sự có lòng từ đối với  bản thân hay với người, thì bạn không thể để ước muốn được bày tỏ sự thân mật, được có cảm giác ấm áp, thương yêu, khiến bạn quay lưng lại với những gì thực sự là phương cách hoàn hảo nhất để mang hạnh phúc chân thật đến cho tất cả.

Diệu Liên Lý Thu Linh -2017

 

(Chuyển ngữ từ "Metta Means Goodwill", Nguồn:  Access to Insight (Legacy Edition), 24 November 2013)

[1] Saṃyutta Nikāya – Tương Ưng Bộ Kinh

[2] Aṅguttara Nikāya – Tăng Chi Bộ Kinh

[3] Karaniya Metta Sutta (Good Will _Kinh Tâm Từ thuộc Kinh Tập- Dịch Giả: Thích Thiên Châu.  Nguồn: Thư Viện Hoa Sen

[4] Udana: Kinh Phật Tự Thuyết

[5] Majjhima Nikāya – Trung Bộ Kinh

[6] Saṃyutta Nikāya – Tương Ưng Bộ Kinh

[7] Aṅguttara Nikāya – Tăng Chi Bộ Kinh

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1326)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 1309)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
(Xem: 1437)
Sống trên đời, có ai không mang ít nhiều âu lo? Người nghèo thì lo làm thế nào để mọi người trong gia đình mình đủ ăn đủ mặc.
(Xem: 1333)
Trong những chúng đệ tử Phật, thì chúng cư sĩ tại gia chiếm số lượng đông đảo và có những ảnh hưởng nhất định đối với diện mạo của Phật giáo nói chung.
(Xem: 1406)
Hạnh phúc chính là sự bình an của thân thể và sự yên tĩnh của tâm hồn.
(Xem: 1387)
Cái vòng tròn vô hình lại quay trọn môt vòng, mùa thu lại về với đất trời Bắc Mỹ.
(Xem: 1284)
Trong Trung luận của Bồ tát Long Thọ luận giảng về tánh Không, phần nhiều là những câu phủ định.
(Xem: 1342)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1353)
Mỗi người trong cuộc sống này luôn có một thử thách để chinh phụcvượt qua, đó là gì?
(Xem: 2037)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1387)
Thế gian không có cái gì khổ cả, khổ chỉ là những ảo giác của con người.
(Xem: 1412)
Thực tập nhằm tăng cường khả năng tập trung hoặc chú ý đóng một vai trò quan trọng trong hầu hết các truyền thống tôn giáo lớn.
(Xem: 1281)
Trong phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm thứ nhất của Kinh Hoa Nghiêm, các thiên vương, các thần vương cho đến các Đại Bồ tát nói kệ tán thán Phật
(Xem: 1539)
Về pháp thiền quán vô thường tôi chia sẻ hôm nay, tôi sẽ không bàn đến đại vô thường như là cái chết, sự hủy diệt, sụp đổ hay sự chia ly.
(Xem: 1384)
Sau khi quy y Tam bảo, vì muốn tìm cầu tri thức, tôi đã nỗ lực nghiên cứu kinh điển. Kinh Phật mênh mông như biển cả,
(Xem: 1241)
Sống lâu, khỏe mạnh là một phước báu lớn. Nhưng không phải ai cũng có được phước báo này.
(Xem: 1208)
Ăn chay không thực hành trong tâm lý cứng nhắc, khắc nghiệt mà ăn chay cần duy trì trong một tâm thái an lạc, nhẹ nhàng và hạnh phúc!
(Xem: 1272)
Thiểu dục: là ít muốn. Tri túc: là biết đủ. “Thiểu dục tri túc”, tức là ít ham muốn và biết đủ.
(Xem: 1257)
Biết chế ngự tâm thì sẽ giảm đi hoặc chấm dứt hẳn những tham vọng, cuồng nộ, sân hận, bẳn gắt, ganh tỵ, đố kỵ, si mê...
(Xem: 1398)
Con người khi mất đi, vẫn còn âm hồn như trong đạo Phật vẫn luôn nhắc đến thuyết luân hồi,
(Xem: 1129)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rừng.
(Xem: 1118)
Người thế gian không biết nên oán trách cha mẹ không có phước nên sanh mình ra khổ.
(Xem: 1175)
"Một thời Đức Phật du hóa tại thành Vương-xá, trong rừng Trúc, vườn Ca-lan-đa. Bấy giờ, Tôn giả Tam-di-đề cũng đi du hóa ở thành Vương-xá, tại Ôn tuyền lâm.
(Xem: 1314)
"Chánh niệm" - Đó là một từ được bàn tán nhiều khi một người lần đầu tiên tìm hiểu về thiền địnhPhật giáo. Chánh niệm là gì?
(Xem: 1335)
Trí huệ là cái mỗi chúng sanh đều vốn có, chỉ vì bị khuất lấp do những che chướng tạm thời, phiền não chướngsở tri chướng, mà không thấy không biết
(Xem: 1105)
Kinh Vu lan, một bản kinh ngắn nhưng hàm súc, tràn đầy ý nghĩa nhân văn, chan chứa đạo lý, thấm đẫm tình người và đặc biệtgiá trị giáo dục nhân cách với đặc trưng hiếu đạo.
(Xem: 1221)
Đôi khi chúng ta sống cùng nhau, đi ngang đời nhau, đối diệnvới nhau nhưng lại chẳng thấy nhau.
(Xem: 1158)
Các đặc điểm hợp lý trong giáo lý Phật giáo sơ kỳ đã có sức hấp dẫn lớn đối với các học giả châu Âu khi họ nghiên cứu vềPhật giáo.
(Xem: 1302)
Là người Việt Nam, chúng ta ai lại không biết bài hát “Lòng mẹ” của Y Vân với những câu hát như “Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình rạt rào/ Tình mẹ tha thiết như dòng suối hiền ngọt ngào…”.
(Xem: 1289)
Ngày Lễ Vu Lan để mỗi người con nhớ đến sự hy sinh, tình thương bao lacông ơn của Cha Mẹ,
(Xem: 1424)
Ngày lễ Vu Lan, những người con ở xa thương nhớ cha mẹ, lòng vẫn luôn hướng về cha mẹ, hướng về nơi chôn nhau cắt rốn của mình.
(Xem: 1530)
Bám chấp là nguyên nhân của mọi đau khổ, phiền não. Đó là những gì làm phát sinh trạng thái hữu và sinh.
(Xem: 1271)
Đạo Phậttôn giáo từ bỏ bạo lực một cách mạnh mẽ nhất trong mọi hình thức.
(Xem: 1256)
Trong mọi truyền thống Phật giáo đều có việc tụng kinh, từ Nam tông, Bắc tông cho đến Mật tông.
(Xem: 1393)
“Hãy ví khổ như rác và hạnh phúc như những đoá hoa… Chuyển hóa khổ đau chính là biết cách biến rác trở lại thành hoa” (Thiền sư Nhất Hạnh).
(Xem: 1429)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rùng.
(Xem: 1349)
Bất kỳ ai trên thế gian này đều mong muốn tìm cho mình hạnh phúc, an lạc, mà những niềm vui, lạc thú trên đời này rất nhiều.
(Xem: 1676)
Câu hỏi là làm thế nào để đem lại sự an tĩnhan lạc nội tâm trong đời sống hằng ngày của bạn
(Xem: 1319)
Phật giáo thời Hậu Lê tuy không phát triển mạnh như thời Lý-Trần, nhưng thể hiện nên nét đặc sắc về nhiều mặt của Phật giáo
(Xem: 1320)
Những phương cách để đối phó với bệnh khi nó xảy ra là gì? Bình thường phản ứng của chúng tacảm thấy ...
(Xem: 1353)
Phật pháp quả là biển học vô bờ, muôn ngàn pháp môn phương tiện, tùy theo căn cơ trình độ chúng ta chọn và thích hợp với các pháp môn tu khác nhau.
(Xem: 1202)
Hiện nay, vấn đề Bảo vệ Môi trường đang rất được quan tâm ở khắp các nước trên thế giới.
(Xem: 1224)
Hiện nay, ô nhiễm môi trường ngày càng trở nên nghiêm trọngViệt Nam và trên thế giới.
(Xem: 1360)
Để lĩnh hội trọn vẹn “cảm giác an lạc” sinh khởi nhờ thiền định, đòi hỏi các thiền sinh phải có một nền tảng định vững chắc.
(Xem: 1476)
Một hôm Ngài A Nan hỏi Đức Phật ? Bạch Đức Thế Tôn, sau khi một chúng sanh qua đời họ sẽ tái sanh về đâu?
(Xem: 1535)
Ba đứa chơi thân với nhau tự thuở nào, thiên hạ ai cũng bảo ba đứa ấy như hình với bóng
(Xem: 1705)
Năng lễ, sở lễ tánh Không tịch Cảm ứng đạo giao nan tư nghì
(Xem: 1566)
Nắng như thiêu đốt suốt những ngày qua. Luồng gió nóng thốc qua sân nhà tưởng chừng làm héo hắt thêm cho những
(Xem: 1462)
Ngũ là năm. Uẩn có nhiều nghĩa, như: chắc chắn, nhóm, thành phần hay yếu tố
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant