Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Nắng sẽ lên

02 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 13483)
Nắng sẽ lên

 
Truyện ngắn:

Cuối năm, trời trở nên rét hơn. Những cơn gió từ sông thổi vào mang theo hơi nước lạnh buốt. Con sông mùa này trông mênh mông, quạnh quẽ. Trời còn sớm nhưng bến sông đã vắng, im lìm lặng lẽ dưới lớp mưa bụi giăng giăng.

Tôi yêu con sông này, bởi sự hiền lànhhoang sơ của nó. Dòng sông đã để lại trong tôi thật nhiều dấu ấn về những tháng ngày thơ ấu. Nơi đây tôi đã chứng kiến bao biến động thăng trầm của những phận người, giống như dòng sông lúc lở lúc bồi, quằn mình gánh chịu tất cả mọi vui buồn của trời đất.

– Mấy năm rồi Nguyên Chương không về nhỉ?

Nguyên Hải khẻ hỏi khi tôi đang mãi nhìn lớp khói sóng đang bốc nhẹ trên mặt sông.

– Từ sau ngày Thầy mất. Tôi đáp.

– Rứa là sáu năm. Hải nhẩm tính rồi nói.

Thì ra Hải đang nhớ về Chương.

Tôi và Hải mỗi năm gặp nhau ở chùa một lần vào dịp cuối năm. Đứa ở Huế ra, đứa ở Nam về. Mỗi lần như vậy, chiều nào tôi và Hải cũng kéo nhau ra gác chuông, ngồi đấy nhìn dòng sông và kể với nhau một vài chuyện gì đó mà mỗi người đã gặp trong những tháng ngày rong ruổi. Và mỗi lần như vậy, chúng tôi không thể không nhắc đến Nguyên Chương, một người bạn đầy cá tính với cõi lòng luôn mang nặng buồn khổ.

* * *

Tôi, Hải và Chương xuất gia cùng một năm. Tôi và Chương cùng tuổi còn Hải nhỏ hơn một. Hải người cao ráo, khôi ngô. Khuôn mặt lúc nào cũng rạng rỡ với nụ cười như chưa bao giờ biết buồn. Hải học sau tôi và Chương một lớp. Hải chăm chỉ và học khá giỏi. Ba năm học Trung học, năm nào Hải cũng nhận phần thưởng kèm tờ giấy khen biểu dương học sinh tiên tiến. Thầy tôi rất hài lòng về Hải, nhưng không phải ở sở học mà ở sự vô tưtrong sáng của chú ấy. Ở chùa, Hải siêng năng cần mẫn; học hành cũng như chấp tác khi nào cũng hết mình. Hải sống không hề làm ai giận và cũng chẳng hề giận ai. Hải ít bận lòng đến bất cứ điều gì, tự tại như một người đắc đạo. Hải có niềm tin rất mãnh liệt vào đạo, và chính niềm tin đó đã giúp cho Hải cảm thấy an ổn khi bước trên con đường mà mình đang đi.

Những tính cách của Hải hoàn toàn không có nơi Chương. Chương trầm lặng, ít nói; đôi mắt sâu buồn, xa xôi. Ở Chương phảng phất chút lãng mạn của một thi sĩ, và lẫn chút tư duy khô người của một triết gia. Chương học giỏi, thông minh, học gì làm gì cũng tỏ ra xuất sắc. Nhưng Thầy tôi chưa bao giờ hài lòng về điều đó. Nét mặt trầm buồn và những tiếng thở dài kín đáo của Chương đã làm thầy tôi bận lòng.

– Hình như con có điều chi không vui? Một hôm Thầy tôi hỏi.

– Bạch Thầy, không ạ! Chương trả lời.

– Răng con lại tự dối lòng mình! Cuộc sống ở chùa không đem lại cho con chút niềm vui nào, phải không?

Chương cúi đầu, im lặng.

Chương ham học và học tất cả những gì mình thích. Chương đi học đàn, khi thầy tôi biết được và ngăn cấm thì quay sang học vẽ. Thầy tôi không tán thành nhưng cũng không phản đối. Chương học khá nhanh và vẽ đẹp. Bức tranh đầu tiên Chương vẽ là dòng sông trước chùa. Bức tranh buồn bởi việc biểu đạt cảnh tượngsử dụng gam màu. Thầy tôi nhìn bức tranh, lắc đầu.

Chương thích làm thơ, và làm cũng khá hay. Thầy tôi rất bực mình khi đọc thơ Chương:

– Răng con lại ưa than vãn vậy, rồi con sẽ khổ cả đời. Cái khổ do những vết thương bởi chính con tạo ra cho mình chớ không phải do ai gây ra cả. Thầy không muốn đọc những bài thơ thế này, càng không muốn con phí sức vào những bài thơ vô bổ đó… Người ta thích cải đổi thế giới, cải đổi cuộc đời mà không thích cải đổi tâm mình. Than thân trách phận liệu có ích gì?

Chương có thói quen thích ra ngồi ở lầu chuông để ngắm sông vào lúc hoàng hôn, đôi khi lại lang thang xuống tận bờ sông. Chương thường làm như vậy một mình nhưng thỉnh thoảng lại rủ tôi và Nguyên Hải cùng đi. Có lần Chương hỏi tôi:

– Chú có thích con sông này không?

Tôi cười. Chương nói tiếp:

– Người ta có thể học hỏi được rất nhiều từ dòng sông đó, chú ạ.

Nghe vậy, Hải cười và nói xen vào:

– Và anh cũng đang học hỏi từ dòng sông này - để rồi anh luôn cảm thấy khổ sở, bất an chớ gì? Anh có vẻ giống triết gia đó, chắc nhiễm Hermann Hesse rồi.

– Tui không nhiễm ai, cũng không thích bắt chước ai cả. Thầy thường dạy tui phải nên học theo cách sống của chú, nhưng tui không thể. Mỗi người đều có một cách sống

riêng, phải không?

Hải vô tư và ít hiểu Chương. Hải dễ dãi nghĩ rằng người ta có thể rủ sạch mọi muộn phiền một cách nhẹ nhàng như rủ một chiếc áo bụi. Hải không hiểu vì sao Chương lại buồn khổ như vậy khi cuộc sống này không có gì để Chương phải buồn cả! Hải đâu biết rằng, nỗi khổ đau của con người rất đa dạng, dễ sinh khởi nhưng lại khó đoạn trừ. Không phải chỉ vài lời khuyên, vài lời động viên là có thể thay đổi được Chương. Chừng nào những hạt giống của khổ đau còn ngự trị, còn được nuôi dưỡng, và chừng nào tư tưởng của Chương chưa được khai thông thì nỗi đau đó vẫn còn xâm chiếm cõi lòng Chương. Thay đổi tư tưởng còn khó hơn dời núi lấp sông. Hải ít hiểu Chương. Chương biết điều đó, nên đối với Hải, Chương luôn xem như một người em hơn là một người bạn. Cho dù thế, Chương vẫn rất thương Hải. Và cả ba chúng tôi đều sống chung với nhau một cách êm ấm, hòa thuận.

Rồi biến cố xảy ra. Thầy chúng tôi qua đời. Ngày đó Hải khóc lu loa như một đứa trẻ. Chương vốn đã trầm lặng nay càng trầm lặng hơn; đôi mắt quầng thâm, mặt đanh lại một cách đau đớn, chịu đựng. Tôi buồn đau vì sự ra đi quá vội vàng của Thầy tôi và xót xa nghĩ đến thân phận của mình trong những ngày sắp đến, nhưng lòng tôi càng nhói đau hơn khi nhìn thấy Chương. Tôi nghĩ sau biến cố này thế nào Chương cũng hoàn tục. Nhưng sự việc đã không xảy ra như vậy.

Sau đám tang Thầy tôi, chúng tôi được sắp xếp cho vào Huế học Trung cấp Phật học. Hải vâng lời một cách ngoan ngoãn. Tôi chưa muốn đi nên lấy cớ qua chung thất Thầy rồi sẽ vào. Chương thì trầm ngâm suy nghĩ, không đồng ý cũng không từ chối. Trước ngày Hải vào Huế, chúng tôi gặp mặt và nói chuyện với nhau thật nhiều. Sáng sớm hôm sau, tôi đạp xe chở Hải lên bến xe. Hải dặn tôi:

– Anh phải vào Huế nghe. Em chờ đó.

Tôi cười. Xe chạy. Chợt thấy lòng buồn khôn tả…

Hai tháng sau, một chiều, Chương rủ tôi ra sông chơi. Con sông mùa hè nước cạn và trong vắt. Những đám mây bồng bềnh trôi vô định trên không in hình xuống dòng nước, lung linh, kỳ ảo.

– Chắc tui phải đi chú ạ. Chương mở lời.

Tôi im lặng một lúc rồi hỏi:

– Chú định vô Huế hay đi mô?

– Tui không vô Huế. Có lẽ tui sẽ vô Sài gòn và thi vào một trường đại học nào đó.

– Tui không dám khuyên chú vì đã quá hiểu chú, nhưng nhớ lại lời Thầy, tui cảm thấy ái ngại. Không biết chú vô trong nớ rồi sẽ ra răng? Trông chú lúc mô cũng có vẻ buồn khổ, không biết khi mô mới thấy chú vui lên được?

Nghe tôi nói, Chương thở dài:

– Tui thật có lỗi với Thầy và với chú quá. Nhưng chú nì, khổ đau có phải là một cái gì đó xấu xa lắm không? Đôi khi tôi nghĩ đau khổ cũng cần thiết cho con người. Tình thươnglòng vị tha dễ nảy mầm trên khổ đau hơn là trên hạnh phúc… Nếu Siddhattha không biết chi đến khổ đau thì có lẽ không bao giờ có đạo Phật. Nói rứa không phải để biện hộ cho mình mô nghe…

Chương nhìn tôi, cười và nói tiếp:

– Chú yên tâm, một ngày nào đó chú sẽ thấy một Nguyên Chương hoàn toàn khác, tột đỉnh của khổ đau là khởi điểm của giải thoát mà…

– Tui thiệt không muốn nghe thứ triết lý đó chút nào. Nhưng thôi, cứ hy vọng như rứa đi.

Chương vỗ vai tôi và cả hai rời bờ sông.

Hôm sau, Chương vào Huế để thăm Hải. Tôi ở nhà sắp xếp hành lý cho Chương. Chương ở Huế ra, tôi hỏi:

– Hải ra răng?

– Khỏe, nhưng khóc như một đứa con nít. Chương đáp, mặt quay đi.

Hai ngày sau, tôi lại chở Chương lên bến xe. Chương nhìn tôi, hỏi:

– Khi mô chú đi?

– Tui chưa tính. Tôi trả lời.

– Tui không biết nói chi với chú lúc ni cả…

Chương nói, mắt đỏ hoe. Lần đầu tiên tôi thấy Chương xúc động như vậy.

* * *

Gió từ sông thổi vào càng lúc càng mạnh, trời mưa lớn và rét đậm hơn. Hải vừa xoa tay vừa nói:

– Sắp hết lạnh rồi đó. Thường khi mô cũng rứa, cuối một đợt rét trời thường lạnh hơn lúc bắt đầu. Tết thế nào cũng nắng.

Thật vậy ư! Tại sao trời phải rét đậm hơn trước khi bắt đầu nắng? Sao tôi không biết điều đó nhỉ. Trời đất kia cũng phải đau đớn khi chuyển giao sao!

Tôi lại nghĩ đến Chương và những gì chú nói với tôi ở bờ sông trước khi ra đi. Tôi tin lời Chương. Một ngày nào đó, tôi sẽ thấy một Nguyên Chương hoàn toàn mới, một Nguyên Chương không còn những khổ đau ngự trị, một Nguyên Chương như cơn nắng lên sau những ngày đông mưa rét.

Tôi nhìn ra sông rồi nhìn Hải. Hải cười, nụ cười rạng rỡ, ấm áp. Tôi cảm thấy lòng mình dịu lại. Vậy là sắp hết rét, rồi nắng sẽ lên và mùa xuân sẽ về.

Nguyên Hiệp


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 595)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 779)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1100)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1268)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 997)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1339)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 789)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 762)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 807)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 823)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 802)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 790)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 947)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 834)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 988)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 1007)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 929)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 931)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 858)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 1014)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 954)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 897)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 995)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 910)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 850)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 958)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 884)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1143)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 914)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 1016)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1154)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1616)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1164)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1260)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1113)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 977)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 919)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 960)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 804)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1486)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1366)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1330)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1274)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1379)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1333)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1478)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1355)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1208)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1267)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1326)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant