Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Truyện Ngắn Người Cửa Phật

24 Tháng Mười Một 201805:59(Xem: 6777)
Truyện Ngắn Người Cửa Phật
TRUYỆN NGẮN

           NGƯỜI CỬA PHẬT        

 Tâm Không – Vĩnh Hữu

Truyện Ngắn Người Cửa Phật

        
  Những năm cuối của thế kỷ 20, “Bến Xe Ngựa” ngay trước nhà tôi đã di dời vào “Bến Xe Lam” gần chợ từ lâu, trả lại một con đường bị chiếm dụng sau nhiều năm tháng đầy kỷ niệm tuổi ấu thơ của tôi, và lũ con nít xóm Chùa.

           Bến xe thổ mộ đã không còn trước nhà nữa, đã giận dỗi bỏ những người đã sống gắn bó với xóm Chùa bao năm để đi vào một chỗ đông vui náo nhiệt hơn mà không thèm nói một lời từ biệt. Buổi sáng hôm ấy, tôi thức dậy, bước ra đường chào một ngày mới, bỗng dưng thấy đường vắng ngắt trống trơn, cảm thấy hụt hẫng, và ngơ ngác như vừa bị ai đó tước đoạt mất một vật quý giá, hay cuỗm đi một người bạn thân thiết từ lúc còn nhỏ mới tập tễnh biết đi. Hỏi ra mới hay, tất cả xe ngựa đã được lệnh rời khỏi nơi mà bao nhiêu năm dùng làm bến đổ cho bao người dân quê “lên xe xuống ngựa”, mang những hoa màu của vùng ngoại thành về cung cấp cho dân thị thành, để cho con đường chạy ngang qua xóm Chùa được phong quang yên tĩnh theo quy hoạch chung của thành phố.

         Trong tương lai, “Bến Xe Ngựa” tạm thời cũng sẽ biến mất luôn khỏi chốn đô thị. Tôi buồn man mác, thèm nhớ những hình ảnh, những âm thanh quá quen thuộc của bến xe thổ mộ trong suốt mấy tháng trời. Rồi nỗi nhớ ấy cũng phai nhạt dần theo vó ngựa thời gian… Nhưng có một chuyện, tôi không bao giờ quên được cho dù mai sau có đầu bạc răng long. Đó là chuyện xảy ra khi tôi mười hai tuổi, cái tuổi thiếu niên nghịch ngợm như quỷ, và háo thắng như “ngựa non háu đá”. Chuyện về một người bạn, và cũng là… học trò duy nhất của tôi.

           Trong số trên hai mươi chiếc xe thổ mộ luân phiên có mặt tại bến, có một chiếc nổi trội mà bất cứ ai khi đã gắn bó, hay quan tâm tới bến xe ngựa duy nhất của thành phố tôi yêu này, chắc hẵn phải biết đến. Đó là một con ngựa trắng toát, cao lớn nhất đàn ngựa kéo xe, được chủ đặt tên như màu lông của nó là Bạch, và cả chiếc xe đi cùng cặp với nó như một “duyên nợ sắp bày” cũng được sơn một màu trắng tinh, kể cả hai bánh xe bằng mủ cao su.

          Chủ nhân của chiếc xe ngựa này là bác Hai Quý, một người nhà quê chân chất, lầm lì nghiêm nghị, quanh năm chỉ thấy mặc một loại y phục: bộ bà ba vải tám màu trắng toát, đầu đội một chiếc mũ nỉ màu nâu sậm.

          Xe ngựa từ ngoại ô về trung tâm phố chợ hằng ngày chủ yếu là chở các dì, các chị nhà quê mang hoa quả rau trái về bỏ cho các vựa lớn trong chợ, đương nhiên phải chịu nhuốm bẩn, nhất là những tháng ngày mưa gió. Vậy mà chiếc xe ngựa của bác Hai Quý luôn luôn giữ được màu trắng sạch sẽ từ trước ra sau, từ ngoài vào trong, từ trên xuống dưới. Bác Hai Quý rất chịu siêng lau lau chùi chùi bất cứ chỗ nào có thể chùi chùi lau lau nơi chiếc xe ngựa cưng quý của mình, bởi dường như đó chính là tài sản quý báu nhất, là vốn liếng duy nhất để gia đình bác mưu sinh. Ai trông ngắm chiếc xe ngựa toàn trắng ấy, đều không khỏi trầm trồ tấm tắc, và nghiêng mình bái phục bác Hai Quý mỗi khi chứng kiến cảnh bác lau chùi kỳ cọ cho ngựa lẫn xe. Bắt chước theo bác Hai Quý sắm ngựa xe toàn màu trắng cũng được thôi, nhưng không ai bắt chước nổi cái tính kiên nhẫnchịu khó để giữ cho cả xe lẫn ngựa trắng sạch quanh năm của bác chủ con Bạch. Trông ngắm chiếc xe ngựa ấy, ai không muốn đi cũng phải muốn trèo lên ngồi một chút để tìm cảm giác sảng khoái, thư thái. Ai đã từng trèo lên ngồi đi rồi, thì cứ muốn đi mãi mãi bằng chiếc xe ngựa này chứ chẳng muốn đổi sang xe khác. Mấy dì, mấy chị bạn hàng không có ngày nào là không giành giật, chen lấn nhau để chiếm chỗ ngồi khi trở về miền quê yên tĩnh cách đó trên mười cây số. Lũ trẻ chúng tôi cũng thường rình rình chờ khi bác Hai Quý đi ra chợ, vào quán, hay mải mê đánh cờ tướng với các bác, các chú đồng nghiệp ngay trước quán nước của bác Bảnh, liền rủ nhau trèo lên xe ngựa của bác ngồi tán dóc chuyện thiên trời địa đất.

        Có một lần, thằng Sơn“Hủ Lô” ngứa tay, nắm lấy dây cương mà bác Hai Quý quên tháo ra khi ngựa đang nghỉ chân tại bến, nó giật giật mấy cái khiến con Bạch lồng lên, chạy vụt tới trước cả một đoạn đường khoảng năm mươi thước mới chịu dừng lại. Lũ trẻ chúng tôi đứa nào cũng xanh mặt cắt không ra một giọt máu, bị các bác các chú đánh xe ngựa mắng nhiếc hăm doạ một trận muốn điếc con ráy, không dám ngước mặt lên nhìn ai. Chỉ trừ bác Hai Quý, người chủ nhân của chiếc xe ngựa vừa bị lũ trẻ chúng tôi phá, lẳng lặng đánh xe về đậu lại chỗ cũ, rồi lặng lẽ lấy giẻ lau lau chùi chùi cho ngựa lẫn xe, không hé môi nói một lời, cũng chẳng thấy giận dữ buồn bực biểu lộ trên gương mặt đăm chiêu khắc khổ…

        Từ dạo ấy, lũ trẻ chúng tôi không đứa nào dám sờ đến dây cương, có trèo được lên xe cũng chỉ ngồi ngoan ngoãn một chỗ trò chuyện với nhau cho đã rồi trèo xuống. Cho đến khi bác Hai Quý mang theo xe thằng Vện, con trai út của bác, để phụ việc, thì lũ trẻ chúng tôi đã không còn dám tự tiện trèo lên chiếc xe ngựa màu trắng dễ thương ấy nữa. Thằng Vện tuổi ngang lứa với lũ trẻ chúng tôi, nhỏ con, nhưng mặt mày rất hung tợn với cặp mắt trợn sáng quắc, và cái miệng luôn mím chặt. Ngày đầu tiên nó theo xe xuống phố, xuất hiện ở bến xe thổ mộ, lũ trẻ chúng tôi mới thấy đã ngán ngại, không dám lại gần làm quen. Có thằng Sơn “Hủ Lô” là vẫn giữ cái tính lì lợm bạo gan cố hữu, thản nhiên trèo lên xe ngựa trắng ngồi huýt sáo bài dân ca “Lý Ngựa Ô” ngay sau khi thằng Vện hung hăng cấm cản bất cứ đứa nào trèo lên xe ngựa của nhà nó. Vậy là thằng Vện chụp cẳng thằng Sơn“Hủ Lô” kéo mạnh xuống. Hai thằng đánh nhau một trận tơi bời. May nhờ các bác, các chú đánh xe ngựa xúm lại can, hai đứa mới chịu thôi. Bác Hai Quý ra chợ về, nghe chuyện, liền dùng roi mây quất ngựa quất cho thằng Vện mấy phát vào mông khiến nó la oai oái. Sau đó, bác vào thẳng nhà thằng Sơn “Hủ Lô” để xin lỗi. Cha thằng Sơn “Hủ Lô”vốn là một công chức ở Toà Hành Chánh Tỉnh, cũng là một người biết điều, nên lôi thằng Sơn ra để thưởng cho một trận chổi lông gà. Hôm sau, bác Hai Quý kêu lũ trẻ xóm Chùa chúng tôi lại, bắt ngồi thành một vòng tròn trước hiên chùa, Vạn Thạnh Ni Tự, trong vòng tròn ấy có cả thằng Vện con trai út của bác nữa, rồi bày ra một mâm bánh trái xôi chè ra đãi một trận no nê vui vẻ.

        Thằng Vện đã trở thành một đứa bạn của lũ trẻ chúng tôi từ hôm ấy. Chính nó đã một vài lần đánh xe ngựa chở lũ chúng tôi trên dưới mười đứa đi ra ngoại thành hít thở không khí trong lành của miền quê vào những trưa tĩnh lặng, dĩ nhiên là được sự đồng ý của bác Hai Quý .Và chính nó đã một lần nhảy vào bênh vực cho thằng Tín “Ròm” để đánh thằng Tí “Trợn” dưới xóm Lò Heo, khi thằng này chặn đường ăn hiếp cái thằng nhỏ con nhất trong lũ trẻ xóm Chùa.

        Nghe thằng Tín “Ròm” kể lại, thằng Tí “Trợn” có học võ Thái Cực Đạo của “mấy ông Đại Hàn” dạy ở trường, nên đánh có bài bản trông đẹp mắt lắm. Nhưng thằng Vện tránh đòn đã đẹp rồi mà xuất đòn còn đẹp hơn. Không biết nó có võ gì mà đánh nhau chừng năm phút, thì thằng Tí “Trợn” đã vắt giò lên cổ bỏ chạy một mạch về xóm Lò Heo, không dám ngoái đầu nhìn lại phía sau. Sau này thằng Vện mới tiết lộ là nó được học môn võ Thiếu Lâm do chính cha nó truyền dạy. Một lần khác, tôi bị hai thằng học lớp lớn hơn ăn hiếp, bắt tôi nộp tiền cho cho chúng, tôi nộp xong, liền thoi đại một thằng, rồi ôm cặp táp chạy u về nhà, nói cho đúng là tôi chạy về… bến xe thổ mộ, đơn giản vì tôi nghĩ  đến thằng Vện. May sao tôi chạy về đúng lúc thằng Vện có mặt, nó đang cho con Bạch uống nước mật. Hai thằng kia rượt theo tôi tới nơi, tôi la lên kêu cứu, thằng Vện chụp ngay chiếc roi mây quất ngựa vung lên mấy đường xé gió trước mặt hai thằng kia, làm chúng hoảng kinh quay lưng mà chạy. Nghe tôi thuật rõ chuyện, qua hôm sau, thằng Vện xách roi vào tận trường để tìm hai thằng đã ăn hiếp tôi, cũng như rất nhiều đứa bạn khác trong mấy tháng trời. Thằng Vện chỉ cần hăm doạ mấy câu với cây roi lăm lăm giứ giứ trong tay, cũng đã đủ làm cho hai thằng kia chết khiếp, lật đật trả tiền lại cho tôi, và không bao giờ dám giở trò trấn lột ăn hiếp đứa hiền lành nữa…

         Tôi rất mến, và cả cảm phục thằng Vện, lại thấy tội nghiệp cho nó không được cắp sách đến trường, nên tôi thường lựa mỗi trưa vắng vẻ ít người qua lại, để ra ngoài bến xe ngựa dạy cho nó học chữ. Thời gian đầu, hai đứa tôi trèo lên chiếc xe ngựa trắng độc nhất vô nhị của bến xe thổ mộ, lặng lẽ đứa chỉ đứa học không cho ai biết, vì thằng Vện nó rất mắc cỡ. Xấu hổ nên nó đâu có chịu học. Tôi năn nỉ rát cổ lắm, làm bộ giận lẫy nên nó mới miễn cưỡng bắt đầu tập làm quen với bảng chữ cái. Tập đọc chừng vài ngày thì nó… ghiền học, ghiền đánh vần còn hơn tôi ghiền đi xem “xi nê ma cộp” vậy.  Khi nó “ghiền” rồi, nó hay rủ tôi lẻn vô sân chùa Vạn Thạnh im ắng thanh tịnh dễ học, dễ “nhập vô đầu óc” hơn. Mà thiệt, tôi phải công nhận thằng Vện chọn khung cảnh để học rất đúng, rất hay, vì những buổi học trong khuôn viên chùa, giữa những chậu hoa cảnh sắp đặt quanh điện Quán Thế Âm… thì đứa học trò của tôi tiếp thu rất nhanh, nghe đâu hiểu đó nhớ đó, không phải hỏi đi hỏi lại. Thằng Vện hay vái “Phật Bà Quan Âm” mấy cái, nói nửa giỡn nửa thiệt:

         “Tao được Phật Bà độ đó nghen mày. Mày mà dạy cho tao biết viết biết đọc thì Phật Bà cũng sẽ độ cho mày ngày càng thông minh, trở thành bác học đó!”

         Nghe vậy, tôi khoái cười tít mắt, tin lắm, tin vậy nên rất hào hứng làm thầy giáo vỡ lòng của Vện. Khi bác Hai Quý tình cờ bắt gặp, biết được thằng Vện được tôi kèm cho học chữ, bác không nói tiếng nào, chỉ xoa đầu hai đứa tôi thật âu yếm, rồi gọi bác Bảnh gái bán quán làm cho mỗi đứa một ly cối chè đậu xanh bánh lọc, ăn no cành bụng. Rồi mỗi trưa, bác lại chuẩn bị sẵn cho hai đứa tôi khi thì bánh bò, khi thì bánh thuẩn, lúc lại bánh in ngũ sắc… “để hai thầy trò bây ăn cho tỉnh ngủ mà dạy với học”. Tình bạn giữa tôi và thằng Vện ngày càng thân thiết, khiến cho nhiều đứa ở xóm Chùa ra mặt ganh tị với tôi. Chúng nó trách tôi “ích kỷ, muốn giành riêng thằng Vện để chơi một mình”. Tôi và thằng Vện chỉ còn biết cách ngó nhau cười khúc khích…

         Mùa hè năm 1972… Đùng một cái, bến xe thổ mộ thiếu vắng hình bóng của chiếc xe ngựa trắng. Vắng luôn cả chủ nhân của chiếc xe. Và vắng cả thằng con của người chủ nhân chiếc xe ấy. Bác Hai Quý và thằngVện đã không còn về với bến xe ngựa xóm Chùa nữa. Lũ trẻ chúng tôi sau đó vài ngày mới được biết, bác Hai Quý đã nằm  một chỗ với đời sống thực vật sau cơn đột quỵ ngã té bên chiếc xe ngựa của mình vào một buổi hừng đông. Tin bác Hai Quý bị bệnh nặng liệt giường truyền đi khắp xóm Chùa, làm cho mọi người sửng sờ, và thương tiếc người đánh xe ngựa lầm lì vô cùng. Mọi người buồn nhớ bao nhiêu cũng không bằng tôi. Tôi không còn gặp được thằng Vện từ ngày xảy ra chuyện buồn ấy. Nỗi buồn nhớ trong tôi nhân lên, nhân lên không biết với mấy lần. Tôi nhớ thằng Vện đến quay quắc, và cũng nhớ bác Hai Quý, nhớ con Bạch đẹp mã oai phong, mà không biết làm sao để xoa dịu nỗi nhớ ấy ...

         Năm 1975. Hai miền thống nhất. Một mùa xuân mới, một cuộc sống hoàn toàn mới đến với mọi người. Chính lúc vật đổi sao dời, nhìn quanh mình thấy toàn là những điều mới mẻ tinh khôi, đổi thay đột ngột, xuống chó lên voi, phụng hoàng thành gà, vịt thành thiên nga, gạo hóa châu, than thành quế… tôi mới thèm được nhìn thấy lại những hình bóng cũ thân quen của mình mà mấy năm đã không được nhìn thấy. Tôi thèm được gặp thằng Vện. Chỉ thằng Vện thôi, vì tôi đã biết được từ một nguồn tin chính xác rằng bác Hai Quý đã đi xa khuất khỏi cõi trần vào năm 1974. Con Bạch cưng quý của bác bỏ ăn bỏ ngủ một thời gian dài rồi cũng nhắm mắt thoát kiếp súc sanh kéo xe vào cùng ngày người chủ trút hơi thở cuối cùng . Người cung cấp tin này chính là bác Bảnh, chủ quán nước chỉ chuyên phục vụ cho bến xe thổ mộ ở xóm Chùa. Ngoài việc bán quán nước, cho các chú các bác đánh xe ngựa thuê mấy bàn cờ tướng, hai vợ chồng bác Bảnh còn lãnh trách nhiệm quét dọn, giữ vệ sinh chung cho bến xe, thu gom cỏ lại để đốt mỗi chiều chạng vạng, khi mà các xe ngựa đều đã trở về chốn thôn quê hiền hoà. Bác Bảnh và bác Hai Quý đã có kết nghĩa huynh đệ, nên rất thân thiết với nhau, thân như người cùng một họ một nhà…

        Mười bảy năm sau, tôi hai mươi chín tuổi, chưa làm nên trò trống gì để góp với dòng sống, với cuộc đời quanh mình đang từng ngày chuyển mình đổi thịt thay da, đang rướn người ngồi dậy, đang vận hết sinh lực để lết từng bước mà hòa cũng thiên nhiên, hòa cùng vũ trụ, và hòa vào vòng sinh tử luân hồi thất mất tồn còn với đầy dãy những nghiệp báo oan khiên, trả vay vay trả…  

         Sáng hôm ấy là một sáng mùa xuân dễ chịu, hương hoa thoang thoảng đó đây, không khí chộn rộn của dòng người xe dập dìu ngược xuôi trên đường làm cho ai dù có lười biếng mấy cũng muốn mặc áo quần vào rồi bước ra khỏi nhà để nhìn nhìn ngắm ngắm thiên hạ chuẩn bị đón Tết. Tôi cũng vậy, tôi muốn ra ngồi ở một quán cà phê cóc để vừa nhâm nhi từng ngụm cà phê đen đặc quánh, vừa nhìn thiên hạ lăng xăng tất bật. Mới vừa chui ra trước ngõ, tôi bỗng giật nẩy mình khi vừa đúng lúc có một chiếc xe ngựa đậu ngay trước mặt. Tôi trợn mắt nhìn. Một chiếc xe ngựa trắng toát cả ngựa lẫn xe. Không có hàng. Không có khách. Chỉ có một người đánh xe. Nhưng người đánh xe này không mặc y phục màu trắng như bác Hai Quý xưa kia đã từng mặc, mà đang mặc một bộ đồ nâu sồng. Một bộ nâu sồng của nhà chùa. Tôi kinh ngạc. Ủa, sao thầy chùa lại đánh xe ngựa? Sao xe ngựa lại dừng trước nhà mình? Sao ông thầy kia lại đang ngó mình chăm chăm, miệng lại còn cười cười… khinh dễ? Một loạt câu hỏi thoáng qua trong đầu tôi, tôi chưa kịp tự mò tìm một câu giải đáp nào thì đã nghe người ngồi trên xe ngựa hỏi với giọng thật sang sảng:

        “Anh Hai có đi dạo chơi ngoại ô một vòng không?”

   Tôi lắc đầu lia lịa. Trố mắt nhìn. “Ông thầy chùa” nhảy cái phịch xuống đất, thoắt một cái đã đứng sát trước mặt tôi, giọng mạnh mẽ cất lên:

         “Không nhận ra thiệt sao, thầy giáo vỡ lòng của tui?”

Tôi trợn đôi tròng lên ngó kỹ, rồi há hốc cả miệng mồm, ú ớ:

“Anh… anh… thầy… thầy là…Vện… Vện đó sao?

“Ông thầy chùa” bật cười ha hả, làm cho tôi ngộp thở đứng chết trân một chỗ.

        “Anh cái con khỉ lanh chanh, thầy cái con cầy! Vện đây. Đúng nó đây. Em xin chào ông thầy giáo vỡ lòng của em ạ!”

    Tôi xúc động, ôm chầm lấy Vện mà xiết vào lòng. Vện, bây giờ đã là một vị tỳ kheo, pháp danh Nguyên Quý, trú trì một ngôi chùa nhỏ ở vùng quê xa xôi yên tĩnh, chỉ chiếc xe ngựa:

   “Đó là một bản sao để tưởng nhớ ông già. Tui đem xe xuống phố để chở bạn bè thuở niên thiếu, đi chơi một vòng ngắm cảnh miền quê như hồi xưa. Bạn bè trong xóm còn đứa nào, hãy lôi đầu ra đây hết, tụi mình dành cho nhau một ngày du xuân dã ngoại để trò chuyện cho thoả lòng hởi dạ!”

          Hỏi mới hay, ngựa và xe “phiên bản trắng toát” mà “ông thầy chùa” đánh chạy từ trên quê xa xuống phố là của bá tánh thập phương hùn góp cúng dường cho chùa để vận chuyển pháp cụ pháp khí, tranh tượng. đồ đạc, hoa quả bánh trái từ nhiều năm qua. Nhưng nghe đâu cũng sắp đến ngày những loại xe lam, xe công nông, xe bò xe ngựa… đều bị cấm vào thành phố, dần dần sẽ cấm lưu thông trên diện rộng hơn. Thầy trú trì đã tranh thủ thời gian được phép ngắn ngủi còn lại để vận hành cỗ xe thổ mộ về phố thị hội ngộ bằng hữu thuở ấu thơ…

         Lũ chúng tôi sau bao năm ly tán khắp nơi, nay gom góp lại chỉ được năm thằng còn ở xóm Chùa, mỗi đứa một hoàn cảnh, mỗi thằng một duyên phận, nhưng khi đã trèo lên chiếc xe ngựa toàn trắng rồi thì gạt bỏ mọi thứ sang một bên, không phân biệt giàu nghèo, tăng tục, tạm quên mọi lo toan vui buồn sướng khổ của cuộc sống, để dành cho nhau một ngày thong dong trên chiếc xe thổ mộ có tiếng lục lạc vang kêu leng keng, và tiếng vó ngựa gõ lộp cộp trên con đường đất năm xưa nay đã được tráng nhựa phẳng phiu êm ái…

  Tôi liếc nhìn Vện, trong đôi mắt sáng quắc của bạn tôi đang ngấn những giọt nước mắt. Tôi biết chắc Vện đang nhớ nghĩ về người cha đáng kính của mình, và ước ao ông có mặt trên xe lúc ấy. Tôi biết chắc, vì chính tôi cũng đang buồn buồn nhớ nghĩ về hình bóng của bác Hai Quý trong y phục trắng toát trang nghiêm, một màu trắng không phải của tang tóc bi sầu, mà là màu trắng tượng trưng cho một cuộc đời thanh bạch thơm tho…

Điều kỳ diệu mà trước khi kết thúc tôi muốn kể cho mọi người nghe để thấy biết về nghiệp duyên nhân quả rõ rệt là: sau ngày hội ngộ ấy khoảng ba tháng, tôi trở thành một đệ tử của thầy Nguyên Quý. Thầy đã “độ”, khai tâm điểm đạo cho tôi, đã tận tâm tận tình chỉ giáo, hướng dẫn cho tôi tu tập chánh pháp để mở mang trí huệ mà sống hòa nhập với thế tục hỗn độn yêu thương và oán thù…

 

TÂM KHÔNG – VĨNH HỮU

                   

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11143)
Trong đạo Phật, cái thương đích thực nó được làm bằng cái hiểu, không hiểu thì không có thương. Cha mà nếu không hiểu con thì càng thương con, con càng khổ.
(Xem: 13225)
Tự lựcyếu chỉ để mình vượt thoát mọi khổ đau, nó có được khi mình hiểu đến nơi đến chốn, khi mình biết thương mình thật sự.
(Xem: 13384)
Khi trong ta đã có tâm tuệ, mọi hành xử của ta đều có mặt của tuệ, nên chúng không bị đối ngại bởi những nhận thức hữu ngã...
(Xem: 13995)
Mỗi tuần lễ đều có hai ngày mà chúng ta không cần phải bận tâm lo âu đến và suy nghĩ đến. Ngày thứ nhứt là Hôm Qua...
(Xem: 13235)
Ngài có công lớn đem Phật giáo vào thế giới phương Tây, mang lại hòa hợp giữa các tôn giáo, trồng cây Bồ Đềvị trí tương xứng với nhân loại ngày nay.
(Xem: 13639)
Cuộc sống là phụ thuộc lẫn nhau. Để có được hạnh phúc, một người cần phải cống hiến nuôi dưỡng hết mình cho xã hội và cho tất cả chúng sinh.
(Xem: 13290)
Ờ, thì nôn nao, thì nhớ, thì… nôn nao. Nhớ hình bóng quê nhà, là nhớ mẹ. Nhớ lúc mẹ lật đật chạy từ trong nhà ra ngõ đón mình về.
(Xem: 13211)
Một vị Bồ tát đạt được giải thoát như một vị a la hán bồ tát trên con đường trở thành một vị Phật. Nhưng ngài không dừng ở đấy; ngài sẽ hoạt động xa hơn để đạt đến giác ngộ.
(Xem: 13012)
Nói đến Tết, chúng ta thường nghĩ tới một dịp vui đầu năm mới - Tết Nguyên đán (còn gọi là Tết cả)...
(Xem: 12517)
Kính đa tạ quý Ôn giảng sư, quý thầy, quý ni sư, quý sư cô luôn hiện diện đầy đủ trong lớp học để thời gian an cư ngắn ngủi tại PHVQT năm 2011
(Xem: 14129)
Đời sống của ngài hàng ngày theo một thời khóa giản dị. Ngài dậy trước khi hừng đông, một thời gian hoàn toàn êm ả và tĩnh lặng thật tuyệt hảo để thiền quán.
(Xem: 12414)
Mỗi ngày được lên trang nhà và đọc một câu chuyện đêm khuya cũng giúp mình tịnh tâm học hỏi được chút ít gì làm hành trang cho chính mình trên con đường tu tập nên mình vui lắm.
(Xem: 13008)
Với dân số khoảng hơn 6 triệu người và có tới 1.400 ngôi chùa lớn nhỏ, Lào là nước có tỉ lệ chùa cao nhất thế giới so với số dân.
(Xem: 13349)
Phật giáo vượt qua giới hạn của cá nhân-nhận ra sự thật của sự liên kết lẫn nhau có nghĩa là cùng tham gia với mọi người trong một thế giới rộng lớn hơn.
(Xem: 11710)
Giới trí thức Phật giáo luôn quan tâm đến nghiệp vận tôn giáo mình trên quê hương cũng như nơi đất khách. Họ vẫn ngồi lại mỗi khi có dịp, nỗi ưu tư được nêu ra...
(Xem: 12579)
Về phương diện tinh thần, hơi thở còn có khả năng làm lắng dịu và chữa trị những cảm xúc tuyệt vọng, lo âu, sợ hãi, bất an v.v... trong ta được bình phục.
(Xem: 13268)
Con người ta nếu sống chân thành, thật thà với chính mình, với người thì cái tâm ấy như vàng, như kim cương nên không sợ chi lửa.
(Xem: 13119)
Văn học Phật giáo có kể về những kỹ nữ là những Phật tử thuần thành. Trưởng lão ni kệ có kể về hai kỹ nữ, cũng là hai chị em Vimala và Sarama.
(Xem: 19459)
Thủ Dầu Một đầu tiên là địa danh vùng, rồi địa danh các đơn vị hành chính các cấp: hạt TDM (1869), tỉnh TDM (1899), thị xã TDM (1975).
(Xem: 13357)
Dù lý giải như thế nào đi nữa thì cũng dễ dàng nhận thấy là mối quan hệ tình cảm của con người là cái quan trọng nhất vượt lên trên cả tiền bạc, vật chất...
(Xem: 13530)
Ta phải thực tập chính niệm để duy trì cái thấy vô thường; cái thấy các pháp tương tác duyên khởi ở trong thế gian, đang bị vô thường bức hại...
(Xem: 17676)
Trước miếu Quan Âm mỗi ngày có vô số người tới thắp hương lễ Phật, khói hương nghi ngút. Trên cây xà ngang trước miếu có con nhện chăng tơ...
(Xem: 14100)
Tại biên giới của tỉnh Tây Khương sát với Tây Tạng có một bà lão sống cô độc, chồng và đứa con trai duy nhất của bà đã qua đời.
(Xem: 12953)
Một vị thiền sư nọ cất túp lều tranh trong rừng sâu sống ẩn dật tu luyện không tranh đua với đời. Thiền sư tiếp xúc với cỏ cây nhiều hơn con người cho nên tâm hồn ông rất thanh thản vô vi.
(Xem: 14035)
Thanh lọc tâm mình bằng cách thiền tập hoặc niệm Phật để tiếp xúc với năng lượng tĩnh lặng từ bên ngoài lẫn bên trong là cách làm của người tin Phật, có trí.
(Xem: 12149)
Có một thứ mà khi càng cho đi thì càng có thêm nhiều, đó là lòng tốt. Có một loại năng lượng nào càng sử dụng, thậm chí càng xài phí thì càng có nhiều thêm, đó là lòng tốt.
(Xem: 11887)
Thời giansự thật, nơi bôi xóa, giấu che và hiển lộ tất cả. Trong nghĩa ấy, thời gianlịch sử. Lịch sử được làm nên từ những ánh rực rỡ và những lặng thầm, trên đường đi của nhân loại.
(Xem: 13090)
Một ngày nọ, chàng trai muốn đi xuất gia. Chàng nói ý định này với người bạn thanh mai trúc mã của mình. Nàng thiếu nữ nghe xong thoáng buồn và hỏi lại...
(Xem: 13368)
Sơ suất có thể làm hại mình, hại người, nhất là trong những quyết định quan trọng. Đó là bài học tôi nghe được từ một người thầy.
(Xem: 11932)
Dầu cuộc đời có bận rộn và nhiêu khê đến đâu, hãy nhớ dừng lại để thở, để nhìn nụ cười trong những đóa hoa, mây bay trong tách cà phê thơm...
(Xem: 17049)
Công việc sẽ chiếm phần lớn cuộc đời bạn và cách duy nhất để thành công một cách thực sự là hãy làm những việc mà bạn tin rằng đó là những việc tuyệt vời.
(Xem: 12414)
Đức Phật đã khẳng định rằng nữ giới và nam giới đều bình đẳng trong khả năng chứng ngộ, và vì lý do đó Ngài đã cho phép họ được xuất gia...
(Xem: 12730)
Hè đến, những cánh phượng nhuộm đỏ một góc đường. Ta lại bồi hồi nhớ lại ký ức xưa cũ. Con đường đất, mái nhà xiu vẹo...
(Xem: 12309)
Hành trang đi vào trong vô thường để tìm chân thường, biết huyễn mộng vẫn đi vào huyễn mộng, để tìm lại con người chân thật, con người của thảnh thơi, thanh tịnh, hạnh phúc...
(Xem: 13995)
Mỗi bước chân và mỗi cái nhìn của mình có thể chế tác được năng lượng an lạc. Mình bước tới và mình biết là mình đang chạm vào tịnh độ.
(Xem: 12378)
Hạnh phúc luôn có mặt trên những chặng đường ta đi qua chứ không phải ở cuối con đường. Hạnh phúc có thể được tìm thấy trong từng phút giây ta sống...
(Xem: 11730)
Nếu mọi người, mọi nhà đều thực hành Luật Nhân Quả họăc biết sợ Nhân Quả thì thế giới này biến thành một Cung Trời mà chẳng cần phải bôn ba tìm kiếm Thiên Đường ở đâu khác.
(Xem: 12478)
Chư Phật Bồ tát xuất hiện ở đời vì chúng sinh mà khởi đại bi tâm, khải mê khai ngộ. Các Ngài đã phát đại nguyện ban vui cứu khổ, phụng sự cho chúng sinh mà không quản nại mọi khó khăn...
(Xem: 12969)
Khi bạn đau khổ, có những vấn đề, mắc bệnh ung thư, bệnh aids, rắc rối trong mối quan hệ, bất kỳ điều gì, hãy nghĩ: “Nguyện đại dương khổ đau sinh tử của tất cả chúng sinh khô cạn.”
(Xem: 13063)
Ở đây, mình đi tìm mùa xuân của lòng người, lòng mình, nên chỉ cần ngồi thật im, thật vững chãi và chế tác năng lượng mùa xuân...
(Xem: 12267)
Để có được sự trưởng dưỡng nội tâm, chúng ta cần phải sống chậm lại, chú ý lắng nghe nhiều hơn, nói ít đi, quan tâm nhiều hơn tới tiếng nói của nội tâm mình...
(Xem: 12331)
Trong cuộc sống cần rất nhiều thiện hạnh để nâng đỡ cho tinh thầnđời sống của chúng ta. Nếu không có những thiện hạnh, chúng ta sẽ dễ sao nhãng tinh thần...
(Xem: 11721)
Một phê bình luôn phải đặt vững trên nền tảng thực tại riêng của nó – thực tại mà nhãn quan của nó làm phát lộ, cái thực tại đặc thù bởi trong cách thức đặc thù mà liên hệ đến cái thực tại...
(Xem: 11778)
VNPG không phải là một phong trào hay một giai đoạn làm ăn phát đạt nhờ mua bán giỏi, mà là một nền tảng đạo đức chuyên biệt, dung chứa những tâm nguyện cao cả...
(Xem: 12109)
Chúng ta may mắn có một đạo Phật, dưới ánh sáng của Đấng Giác ngộ với tấm lòng Từ bi và Trí tuệ, xuất hiện trên cuộc đời uế trược nầy vì lợi ích cho trời người.
(Xem: 13132)
Lắng nghe mọi người, để hiểu và thương. Đó cũng là một cách nói rằng: tôi luôn có mặt cho mọi người, nhất là những người đang khổ đau.
(Xem: 12658)
Khi mình niệm hơi thở, nụ cười, là khi mình làm cho tâm mình lắng dịu, như hồ nước không gợn sóng, có nghĩa là mình có định.
(Xem: 13120)
Giác ngộ mới là cái cần làm, trong đó trước tiên là hiểu mình, đến hiểu bản chất của cuộc sống vạn vật, rồi quay lại với cuộc sống sôi động.
(Xem: 11694)
Thịt bò nói riêng và súc vật nuôi để làm thức ăn cho con người nói chung đã và đang tổn hại môi trường sinh thái.
(Xem: 14916)
Đức Đạt Lai Lạt Ma đã làm rõ ràng việc chúng ta có thể tha thứ ra sao nhưng vẫn tin rằng trong ý chí tự do chọn lựa, tất cả chúng tathể không phải hành động tổn hạithực hiện những điều tốt đẹp.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant