Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Sự Buông Xuống Sau Cùng

28 Tháng Mười Một 201807:38(Xem: 6893)
Sự Buông Xuống Sau Cùng

SỰ BUÔNG XUỐNG SAU CÙNG

Hoàng Nguyên


Sự Buông Xuống Sau Cùng


Đức Phật
nói rằng thế giớivô sở hữu, chúng ta không ai sở hữu được gì ở cuộc đời này, có chăng cũng chỉ là sự nắm giữ tạm thời, không ai dám chắc là mình có thể nắm giữ mãi những gì mình đang có, vì mọi thứ luôn đổi thay, biến dịchhoại diệt. Cho nên khôn ngoan nhất là sống với thái độ buông xả, ít dính mắc nặng nề để bớt tham lam hơn, để dễ dàng san sẻ những gì mình có cho người khác, để khi chúng mất đi lòng không quá buồn đau tê tái. Tôi nhớ ngài thiền sư Ma Tuyến đưa ra hình ảnh bàn tay nắm lại và bàn tay để ngửa xòe ra để nói về thái độ của chúng ta đối với những gì mà mình đang nắm giữ.

Thái độ, nếu quá bám chặt vào những thứ ta đang sở hữu, như bàn tay nắm lại, sẽ mất đi sự tự do đối với chúng; một chút hao hụt, mất mát, biến hoại, ta thấy lòng mình như bị bóp nghẹt lại, đau đớn, khổ sở. Trái lại, thái độ như bàn tay để ngửa sẽ cho chúng tatự do đối với những thứ mình đang có. Bàn tay để ngửa là bàn tay xả buông, biết san sẻ, biết cho đi. Bàn tay nắm lại là bàn tay dính mắc, ích kỷkeo kiệt.

Sống không dính mắc với mọi cái mình sở hữu, ấy là một sự buông bỏ tuyệt vời. Nhưng sự buông bỏ rốt ráo nhất, sau cùng nhất, để đạt đến tự dogiải thoát tối hậu, là buông xuống cái tôi của mình. Ai cũng thấy cái tôi là nguồn cơn của mọi rắc rối, phiền toái và khổ đau nhưng vẫn cứ loay hoay không biết xử lý nó như thế nào như chính lời bộc bạch của Krishnamurti: “Tôi thấy cái tôi luôn luôn đang vận hành mang lại lo âu, sợ hãi, thất vọng, tức giận, đau khổ, không chỉ cho chính tôi mà còn cho tất cả những người quanh tôi, liệu cái tôi đó có thể xóa sạch, không phải từng phần nhưng toàn bộ hay không? Liệu tôi có thể thấu hiểu tận cội rễ của cái tôi, thấy năng lực phá hoại của nó để hủy diệt nó hay không?”.

Cái tôi ấy ta phải xử lý như thế nào, buông bỏ ra làm sao? Triết lý thôi thì chưa đủ. Triết lý thì khô cứng với những khái niệm. Vậy thì phải thực tế. Thực tế ý niệm mình thế này, mình thế kia là nơi y cứ của bản ngã, là nơi hành hoạt của cái tôi. Cho nên buông bỏ cái tôi là buông bỏ ý niệm “tôi là”. Tôi là người giàu có, tài năng, giỏi giang, quan trọng và địa vị… hơn người, là những ý niệm mang dáng dấp cái tôi. Nghĩ rằng mình hay, giỏi, tài năng hơn sẽ gặp khổ đau khi thất bại, khi người khác thành công hơn mình. Cho rằng mình giàu có sẽ cảm thấy nghèo khổ khi tài sản bị sụt giảm, hao hụt hay mất mát. Thấy mình quan trọng sẽ gặp buồn bã khi bị mọi người bỏ rơi, không ai quan tâm đến. Nghĩ mình địa vị cao sẽ bực tức khi ai đó tỏ ra bất kính.

Không thấy mình hay, giỏi, tài năng hơn người, nếu có thất bại thì cũng là lẽ đương nhiên, không có gì phải tự dằn vặt trước sự thua thiệt đối với người khác. Không thấy mình giàu có thì cũng chẳng thấy mình nghèo khổ bao giờ. Không thấy mình quan trọng nên chẳng buồn khổ khi không được mọi người đoái hoài, quan tâm đến. Không thấy mình địa vị cao nên chẳng hậm hực khi ai đó tỏ ra bất kính. Đức Phật nói ý niệm ta là thế này, ta là thế kia là nguồn gốc của mọi phiền não, khổ đau. Cho nên, đừng bao giờ gán cho mình một ý niệm nào cả. Mình gán cho mình ý niệm nào thì mình sẽ khổ vì ý niệm đó. Đó là cái thấy của Phật.

Một thực tế khác là biết đặt mình vào ví trí, hoàn cảnh của người khác, khi ấy là ta đã rời khỏi vũ đài cái tôi của mình, chan hòa cái tôi của mình vào cái tôi của người. Biết đặt mình vào vị trí của người khác là ta xóa tan ranh giới cái tôi giữa đôi bên. Nếu đặt mình vào nơi hết thảy chúng sanh thì ta không thấy cái tôi của mình đâu nữa. Cái tôi của mình đã tan biến vào trong hết thảy chúng sanh, như giữa biển nước mênh mông không thấy đâu là bến bờ, không thấy đâu là bóng dáng của cái tôi nữa. Lúc này cái vui của người cũng là cái vui của mình, cái buồn của người cũng là cái buồn của mình. Thảo nào mà ngài Duy-ma-cật phát biểu một câu mà người không hiểu sẽ cho là nói ngoa, đầu môi chót lưỡi: “Ta bệnh vì chúng sanh bệnh”. Ôi, có câu nói nào sáng tỏ hơn câu nói thế ấy để diễn tả cái tôi đã tan biến vào nơi hết thảy chúng sanh!

Ai biết đặt mình vào vị trí của người khác, người đó biết vứt bỏ cái tôi, vì khi ấy họ không nghĩ cho mình nữa, mà nghĩ cho người khác. Họ lấy cái tâm của người khác làm tâm mình, lấy suy nghĩ của người khác làm suy nghĩ của mình. Vua Trần Thái Tông cảm ngộ thế sự vô thường, hưng suy của sự nghiệp chính trị, nên đã bỏ ngôi báu, triều thần trốn lên núi Yên Tử ẩn tu. Ở đấy, vua gặp quốc sư Phù Vân. Và chính lời khai thị của quốc sư sau đây, khi quần thần và dân chúng thiết tha thỉnh cầu ngài trở lại kinh đô để lãnh đạo đất nước, đã đưa vua trở lại triều đình, tiếp tục sự nghiệp làm vua của mình: “Phàm làm bậc nhân quân thì phải lấy ý muốn của thiên hạ làm ý muốn của mình, lấy tấm lòng thiên hạ làm tấm lòng của mình”.

Lấy tâm thiên hạ làm tâm mình thì còn chỗ nào cho bản ngã trú ngụ nữa đâu, có đất nào cho bản ngã hành động nữa đâu. Cái tôi còn có thể dựa vào đâu mà lên mặt ra oai. Khi tâm mình chứa đầy tâm thiên hạ thì đấu tranh với ai, hơn thua với ai nữa! Khi ấy tất cả đã là một, một khối thống nhất, không còn phân biệt ta và người nữa. Mọi nhu cầu của người cũng là nhu cầu của ta, mọi quan tâm của người cũng là quan tâm của ta. Tiếng nói của người cũng là tiếng nói của ta. Tâm thiên hạ trong tâm ta, thì đâu là ranh giới của cái tôi? Cái tôi tan biến như làn khói tan vào hư không, không một dấu vết, khi tâm ta hòa làm một với tâm thiên hạ. Lời khai thị ấy của quốc sư Phù Vân quả là một phát ngôn trác tuyệt về đạo lý vô ngã.

Một thực tế nữa là nguyện phụng sự tha nhân. Dù sống ở đâu hay làm gì cũng phải đặt cái tâm phục vụ người khác lên hàng đầu. Ngang qua hành động phụng sự người khác ta làm triệt tiêu cái ngã của mình. Chư Phật và Bồ-tát đã đạt đến vô ngã vì mỗi giây phút các ngài đều nguyện phụng sự chúng sanh, làm lợi ích cho chúng sanh. Tu tập là cầu làm Phật, làm Thánh, mà làm Phật, làm Thánh là làm gì nếu không phải là phục vụ cho chúng sanh, tôi tớ cho chúng sanh.

Đại lão Hòa thượng Thích Trí Quang khi dịch bộ kinh Ba Ngàn Hiệu Phật, đã bình luận thế này: “Phật phục vụ. Phật cống hiến. Và những nhu cầu bình thường, Phật cũng làm cho thỏa mãn. Phật làm lãnh đạo, cũng làm tôi tớ, làm không tuyên bố. Phật tối thượng, tối thượng ở chỗ tự hạ cái tâm mình xuống mà làm kẻ phục vụphục dịch”.

Phật, Thánh, quý ngài mỗi người mỗi nguyện, nhưng tất cả đều phục vụ chúng sanh, làm lợi ích cho chúng sanh, làm tốt đẹp cho chúng sanh. Mọi ngã chấp đều tan biến trước lời nguyện thiết tha phụng sự tha nhân.

Sống trong một đoàn thể một cộng đồng, nên luôn luôn đặt mình vào vị trí thấp nhất để cư xử, đối đãi với người. Trong kinh Phật có ghi lại câu chuyện một vị đồng phạm hạnh vu khống Tôn giả Sariputta về việc tôn giả sống cao ngạo, xem thường các vị đồng tu, gây tổn thương họ mà không có nổi một lời xin lỗi.

Chúng ta hãy nghe bậc Tướng quân Chánh pháp giãi bày tâm can: “Bạch Thế Tôn, con trai của một người Chiên-đà-la (Candala - hạ liệt) hay con gái của một người Chiên-đà-la, với tay cầm bát ăn xin, mặc đồ rách rưới, đi vào làng hay đi vào thị trấn, với một tâm trạng hạ liệt. Cũng vậy, bạch Thế Tôn, con an trú với tâm giống như con của một người Chiên-đà-la”.

Rồi Tôn giả ví tâm mình như đất nước gió lửa… dù người ta có đổ lên đấy bao nhiêu rác rưởi dơ bẩn thì ngài cũng không hận, không sân, luôn xem mình là người hạ liệt, thấp kém, luôn đặt mình vào vị trí thấp nhất mà đối đãi với người, không cao ngạo, không khinh miệt một ai.

Đọc những lời giãi bày tâm can ấy, không ai mà không khỏi xúc động. Một người mà trí tuệ cao vời, hạnh đức cao vời, được mệnh danh là đệ nhất về sự thông thái, bậc Tướng quân Chánh pháp, mà tự xem mình như kẻ hạ liệt, thấp kém. Vậy thì ta là ai mà cống cao ngã mạn. Hãy học tập cái hạnh đức cao quý ấy của Tôn giả Sariputta, luôn đặt mình ở ví trí thấp nhất mà đối xử, giao tiếp với người. Ngài hạ mình xuống nhưng đạo đức của ngài cao ngất trời. Càng cúi xuống đạo đức càng cao lên. Cúi xuống tức là buông cái tôi ra.

Buông cái tôi xuống thì đạo đức ở trên cao. Không có đạo đức nào cao hơn đạo đức buông cái tôi xuống, vì đạo đức ấy không xét trên bình diện thiện ác nữa mà là đạo đức của giải thoát. Hành động vô ngã là hành động của giải thoát, chứ không phải là hành động của thiện ác nữa. Hành động ấy đưa ta đến với tự do. Hành động mà không thấy mình hành động, không thấy người hành động. Không thấy mình làm thì không bị kẹt ở mình, không thấy người làm thì không bị kẹt ở người. Đó là tự do, là giải thoát. Làm mà thấy mình làm là chấp vào công lao, chấp vào công trạng, chấp vào cái làm, cái hành động, ấy là ta bị kẹt ở ta. Hành động mà không thấy người hành động thì hành động đó cũng như gió thổi, mây bay, suối chảy, lá rơi, hoa nở…

Không ai giận đám mây che khuất ánh trăng, không ai giận tiếng suối cứ róc rách suốt ngày đêm, không ai giận cơn gió làm rối mái tóc vừa mới chải. Tôi nhớ đã đọc đâu đó câu chuyện một chiếc thuyền không người lái va vào chiếc thuyền có người lái, thoạt đầu người lái thuyền kia rất giận giữ, nhưng khi nhìn kỹ không thấy ai trên con thuyền đó cả, thì người lái thuyền kia tự dưng hết giận. Chỉ dừng cái thấy nơi hành động mà không thấy thêm ai nữa thì phiền não giận hờn, buồn phiền không có nơi để bám vào, chúng rơi rụng như cây trút lá vào mùa thu.

Cái tôi nếu không được buông xuống thì mọi hành động, việc làm của mình đều bị vướng kẹt, kể cả chuyện tu hành. Làm việc thiện mà không buông cái tôi xuống thì tự hào với việc thiện mình làm. Học nhiều hiểu rộng mà không buông cái tôi xuống thì tự cao về cái học của mình. Tụng kinh, ngồi thiền, trì chú nhiều mà không buông cái tôi xuống thì tự đắc với việc hành trì của mình. Đức Phật nói rằng nỗ lực tu tập là để vượt qua bản ngã, chiến thắng chính mình, chứ không phải để tranh hơn thua với ai, dù một người có nỗ lực sống đúng với giới luật, siêng năng tụng kinh, trì giới, nhưng nếu trong tâm còn bóng dáng của ngã chấp, quý mình, khinh người thì người đó chưa phải là bậc chân nhân đáng kính, chưa phải là người tu tập đúng nghĩa.

Vậy thì, tu tập rốt ráotối hậu là nhằm đạt đến tự dogiải thoát, là buông xuống cái tôi của mình.

Hoàng Nguyên

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2101)
Khi mới vào đạo, điều đầu tiên chúng ta được dạy là không nhìn lỗi của người khác.
(Xem: 2069)
Sống ở đời ai cũng mong cầu được hạnh phúc. Hạnh phúc là gì?
(Xem: 2222)
Ở đời bất cứ sự kiện nào xảy ra cũng có nguyên do của nó. Như bài kinh “Bát Đại Nhân Giác” xuất hiện trên thế gian này cũng không ngoại lệ.
(Xem: 1729)
Hai chữ vô thường rất quen thuộc với mọi người chúng ta, trong đời sống hàng ngày ai ai cũng nghe và nói.
(Xem: 2039)
Tư tưởng nhân quả Phật giáotư tưởng nổi bật trong nhân sinh quan Phật giáo.
(Xem: 1747)
Chúng ta đang chứng kiến những bất ổn xã hội hay thiên tai trên toàn thế giới, Việt Nam không phải là ngoại lệ khi gần đây
(Xem: 1734)
Sống phải có niềm tin, nhưng đừng tin quá vào một người, dù người đó là ai, có địa vị như thế nào trong xã hội.
(Xem: 1907)
Đức Phật đã dạy cho hàng đệ tử về mối tương quan và lợi ích của việc thực hành bốn nhiếp pháp trong Kinh Tăng Chi Bộ,
(Xem: 1916)
Đức Phật Thích Ca Như Lai của chúng ta, lúc mới phát tâm, đã vì ta mà tu Bồ tát đạo, trải qua vô lượng kiếp chịu đủ các thứ khổ cực.
(Xem: 1569)
“Không làm các việc ác Siêng làm các việc lành Thanh tịnh hoá tâm ý…”
(Xem: 1739)
Việc khấn nguyện, cầu nguyện là một vấn đề tâm linh rất phổ biến của tín đồ mọi tôn giáo và không cứ gì mùa xuân mà việc khấn nguyện...
(Xem: 2081)
Hồi sáng, lúc đi thiền hành ở Xóm Thượng, tôi đi xuôi xuống chùa Sơn Hạ. Mỗi bước chân giúp tôi tiếp xúc với sự sống rất sâu sắc
(Xem: 1834)
Chế độ ăn kiêng của bạn có thể giúp dự đoán bạn sống được bao lâu.
(Xem: 2396)
Đức Phật dạy “Thân người khó được, Phật pháp khó nghe”. Biết điều này, khi được là con Phật, ta sẽ thấy mình thật hạnh phúc vì ...
(Xem: 1723)
Không ít Phật tử đến chùa quy y, học Phật pháp, công quả, tham gia các hoạt động Phật sự, thường theo cảm tình đối với người Thầy ở nơi mình đến hơn là...
(Xem: 1723)
Giữ năm giới là khó, giữ gìn một cách hoàn hảo càng khó hơn. Muốn giữ giới hoàn hảo, trước phải học và thông hiểu về mỗi giới
(Xem: 1687)
Đóng cửa các nẻo đường xấu ác để chúng sanh không bị sa rớt xuống các nẻo địa ngục, quỷ đói, súc sanh.
(Xem: 2130)
“Chớ bảo xuân tàn, hoa rụng hết. Đêm qua sân trước một cành mai”
(Xem: 1955)
Người ta nói uống trà là thú vui tao nhã, thanh cao. Thú vui cuộc đời nói chung có hai loại là thanh cao và không thanh cao.
(Xem: 2100)
Mỗi khi mùa xuân mới về là trời đất lại thanh tân, vạn vật muôn loài thay áo mới nhưng lòng người thì vẫn cũ, vẫn chẳng đổi thay,
(Xem: 1635)
Nếu mùa xuân là cái gì tươi đẹp nhất thì đó phải là vẻ đẹp từ sự biết ơn trong tâm hồn của mỗi người.
(Xem: 2259)
Mùa xuân hải ngoại trời lạnh lắm nhưng lòng người ấm áp vì nhớ về những mùa xuân dân tộc.
(Xem: 1601)
Không biết từ khi nào, có lẽ từ lâu lắm rồi, trà là một trong những thứ không thể thiếu trong các gia đình của người phương Đông nói chung và người Việt Nam nói riêng.
(Xem: 1882)
Mùa xuân là mùa khởi đầu năm mới. Năm mới thường mở đầu bằng một mùa xuân mơ ước đầy khát vọng, hoài bão.
(Xem: 1772)
Bóng chiều ngã dài, trên sườn đồi, vài sợi mây xanh vươn vấn, tiếc nuối dư hương nhạt nhòa, chạnh lòng băng giá khách tha phương tìm về cố quốc
(Xem: 1835)
Đạo đức học Phật giáo là một hệ giá trị bền vững cùng năm tháng, xuất phát từ tuệ nhãn của bậc Thiện Thệ hơn hai nghìn sáu trăm năm trước.
(Xem: 1676)
Trong Trung luận hay Trung đạo luận hay Trung quán luận (Mulamadhyamakakarika, Căn bản Trung luận tụng), bản văn căn bản của ngài Long Thọ,
(Xem: 2417)
Ngày Tết cũng là dịp để những người con Phật suy nghiệm về lẽ vô thường biến dịch của vạn pháp và của chính thân phận mình.
(Xem: 2127)
Sự tha thứ chữa lành vết thương cho người mà bạn cho là đã xúc phạm và chính bạn, người bị xúc phạm.
(Xem: 2076)
Cuối thế kỉ XIX cờ Phật giáo được thiết kế nhằm tượng trưngđại diện một cách thống nhất cho Phật giáo và được Phật tử trên khắp thế giới sử dụng.
(Xem: 1882)
Ngôn ngữ là hình thái biểu đạt ý tưởng.Tùy mỗi chủng loại có một âm ngữ riêng; âm ngữ của con người thể hiện qua ngôn ngữ ...
(Xem: 2238)
Chúng ta thường đấu tranh với việc chọn món quà nào là hoàn hảo. Chúng ta tập trung sự chú ý của mình chủ yếu vào các đối tượng và sự kiện.
(Xem: 1804)
Thực hành Tịnh độđơn giản. Cách tu tập này không yêu cầu hành giả phải được học về tư tưởng Phật giáo hoặc đặc biệt về giới, về thiền hoặc kỷ luật tâm linh.
(Xem: 1925)
Một trong những kết luậnPhật giáo và các nhà khoa học đều đồng ý là không có đấng tạo hóa.
(Xem: 2162)
Thiền pháp tỉnh thức (mindfulness meditation) đang trở thành một trong các khuynh hướng ưu thắng của nhiều lĩnh vực hoạt động tại Hoa Kỳ và nhiều nước khác.
(Xem: 1689)
Đức Phật giảng dạy tám mươi bốn ngàn pháp môn, mỗi pháp môn phù hợp cho trình độcăn cơ của chúng sinh tiếp nhận,
(Xem: 1952)
Niềm tin là nguồn nguyên liệu cần thiết cho sự sống. Không có niềm tin, con người ta sẽ chết, hoặc sống gần như chết
(Xem: 1949)
Tu, rốt cuộc là để nhìn vạn pháp đúng như chính nó.
(Xem: 2160)
Niệm Phật là một pháp môn dễ học, dễ tu, được đức Phật dạy rất sớm, rất nhiều trong các kinh, từ kinh Nikaya hệ thống ngôn ngữ Pali của Phật giáo Nguyên thủy.
(Xem: 1933)
Bài kinh “Bốn Hạng Người Hiện Hữu Ở Đời” được ghi lại trong Tăng Chi Bộ Kinh I, chương 4, phẩm Bhandagàma, phần Thuận Dòng.
(Xem: 1772)
Bài viết này được biên soạn bởi có nhiều Tỳ khưu hỏi tôi về những giới luật sử dụng tiền bạc được tìm thấy trong vinaya (Tạng Luật).
(Xem: 1754)
Đạo Phật có phải là một tôn giáo không là một câu hỏi không mới nhưng không cũ đối với những ai đến với đạo Phật chỉ bằng con đường tín ngưỡng đơn thuần.
(Xem: 1766)
Đi chùa lễ Phật, cầu gia hộ. Trước buổi học Phật pháp, hay lễ hội Phật sự, nghi thức đầu tiên đều là “niệm Phật cầu gia hộ”.
(Xem: 1883)
Đúng là nếu giữ được năm giới thì cơ bản sẽ không rơi vào ba đường ác và được tái sinh ít nhất là vào cõi người,
(Xem: 2165)
Trong kinh Thừa tự pháp, đức Phật dạy hàng đệ tử nên thừa tự giáo pháp của Ngài chứ không nên thừa tự tài vật của Ngài.
(Xem: 1719)
Trong các kinh Bát nhã ba la mật giảng nói nhiều về tánh Không với những phẩm tính như vô tự tánh, vô sở hữu, bất khả đắc, vô sanh, như huyễn…
(Xem: 1686)
Phật phápgiáo lý của Đức Phật. Gọi là giáo lý tức là nhằm chỉ đến giáo dục với tất cả các phạm trù
(Xem: 2256)
Con người vĩ đại đó, tấm lòng trí tuệ đó, phương pháp giáo dục siêu việt đó của đức Phật đã khiến muôn nghìn trái tim của nhân loại hướng về Ngài
(Xem: 1962)
Định hướng tư tưởng là một vấn đề vô cùng quan trọng trong đời sống sinh hoạt của con người.
(Xem: 1786)
Ngược dòng lịch sử hơn 2.500 năm về trước ở xứ Ấn Độ, trước khi Đức Phật ra đời, nơi đây đã đơm hoa kết trái nhiều hệ tư tưởng khác nhau.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant