Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bài Học Trong Lịch Sử Việt Nam

29 Tháng Mười Một 201807:44(Xem: 6388)
Bài Học Trong Lịch Sử Việt Nam

Bài Học Trong Lịch Sử Việt Nam

Nguyên Cẩn

hoa sen


Cuộc khởi nghĩa Lý

Những vị tu sĩ Phật giáo đầu tiên đã đến Việt Nam để quảng bá Phật pháp vào khoảng đầu thế kỷ thứ II sau Tây lịch, giữa lúc người dân đất Giao Châu đang rên siết dưới sự bạo tàn của nền đô hộ mà ngưới Hán đã dựng nên. Sự tàn sát người bản xứ từ Phong Châu đến Tượng Quận, Cửu Chân và Nhật Nam bởi Hán Mã Viện và Ngô Lục Duệ có lẽ chưa phai mờ trong ký ức của dân Lạc Việt. Những người sống sót và ở lại phải cam chịu sự sống trong sợ hãi, buồn thảm và tủi nhục của bọn nô lệ vong quốc. Sự đồng hóa, bắt đầu với Mã Viện và Sĩ Nhiếp, vẫn tiến hành một cách nghiêm khắccưỡng bức để xóa hết những vết tích còn lại trong văn hóa người dân bản địa.

“Trong cái khung cảnh đàn áp và tàn bạo ấy, đạo Phật đã đến như một ngọn gió mát, và như những người mất nước, mất gốc và mất đến cả tính cách con người của đất này, đã lấy lại được hy vọngniềm tin trong tôn giáo của tình thương, một tôn giáo mà người thổ dân không biết từ đâu đến, nhưng chắc chắn không phải của đế quốc đem sang… Đây chính là cái lý do thâm trầm đã làm cho đạo Phật ăn sâu vào trong lòng dân. Không phải chỉ vì những tỳ-khưu đã điểm hóa cho người dân Việt là những bậc kỳ tài. Nhưng mà quan trọng hơn nữa là vì đạo Phật là do những người không phải là thực dân đem tới cho đám lê dân đau khổ của một nước bị trị, bị dày xéo, để an ủixoa dịu họ.

Các chùa chiền đã dựng lên một hệ thống giáo dục cho dân chúng, để truyền bá đạo pháp và những ý kiến mới về giá trị con người… Và đến thế kỷ thứ VI thì cái quả đầu tiên đã được cấu thành, đó là cuộc nổi loạn quy mô chống lại đế quốc, cầm đầu bởi Lý Bí và một người cháu mà lịch sử chỉ gọi đơn giảnLý Phật Tử. Họ Lý tuy không thành công vì những tranh chấp trong hàng ngũ lãnh đạo. Tuy vậy cuộc khởi nghĩa của nhà Tiền Lý cũng đã cắt đứt được sự Bắc thuộc trong 60 năm (541-602)”2 .

Thiền Yên Tử và chiến thắng xâm lăng

Theo Giáo sư Cao Huy Thuần, nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông nằm ở tinh thần đoàn kết quốc gialãnh đạo giỏi.

Ông cho rằng thành tựu văn hóa đời Trần phải kể đến “tam giáo đồng nguyên” khi vị vua Phật tử, vua Thiền sư Trần Thái Tông sùng kính Khổng Lão trong chính tư tưởng chứ không phải chỉ dùng Khổng Mạnh như một công cụ chính trị.

Trích dẫn Khóa hư lục: “Nếu liễu ngộ thì tam giáo đều giống nhau, bởi vì chỉ cần xoay lại, tia sáng rọi vào mình thì tánh giác ở ai cũng giống nhau”. Cái độc đáo của Phật giáo đời nhà Trần là “lấy Thiền tông làm chỗ dựa để dung hợp Khổng Lão vào một nhà”, thế nên Thiền đời Trần là Thiền Việt NamViệt Nam cần đoàn kết chống xâm lăng trước mắt, nên “Phật giáo được quần chúng hóa, ta đi ở giữa bụi đời mà vẫn thấy cư trần lạc đạo”3 .

Trong một bài viết trước đây, chúng tôi đã viết “… vua Trần Nhân Tông không chỉ đánh giá cao những người lãnh đạo tài ba thuộc tầng lớp trên của xã hội, ngay cả những người dân thuộc tầng lớp thấp kém nhất, tầng lớp gia đồng, vua cũng có một đánh giá như thế. Tầng lớp này vào thời điểm ấy có thể không phải thuộc thành phần được học hành nhiều, có của cải khá, nhưng đối với sự tồn vong của quốc gia, họ vẫn có những đóng góp to lớn, thậm chí bằng chính cả xương máu của chính mình. Thế nên chúng ta mới có những anh hùng dân dã như Yết Kiêu, Dã Tượng… Trần Nhân Tông đã vận dụng lực lượng chủ lực ấy, vốn nằm ở đáy tầng, là sức gốc, là mặt trận gốc, gồm có tuyệt đại đa số dân chúng trung kiên của xã hội Việt.

Chỉ có phát huy dân chủ dựa vào cương thường lấy con người làm nền tảng mới là phương sách đem đến sức mạnh cho kháng chiến và xây dựng trong hòa bình, đồng thời gìn giữ hòa bình lâu dài. Bằng cái nhìn xuyên thấu trước thời đại, Trần Nhân Tông đã cứu nước và giữ nòi bằng một cương lĩnh hành động rất đầy đủ, mang tính cách mạng và hướng thượng”4 .

Ngẫm câu nói của của nho gia Lê Quát: “Nhà Phật lấy họa phúc để cảm động lòng người sao mà được người tin theo sâu bền như thế! Trên từ vương công, dưới đến dân thường, hễ bố thí vào việc nhà Phật dù cho hết tiền của cũng không sẻn tiếc… Cho nên trong tự kinh thành, ngoài đến châu phủ, cho đến thôn cùng ngõ hẻm không phải ra lệnh mà tuân theo, không bắt phải thề mà giữ đúng”5 .

Phải chăng đó là sức mạnh khiến Trần Hưng Đạo tin chắc sẽ thắng trận khi ông quả quyết: “Nếu bệ hạ muốn hàng, hãy chặt đầu thần trước đã”. Ông tin vào sức mạnh hay đúng hơn khí thế của ba quân, ở chính ông, và sự vững vàng của nhà vua. Bởi vì vị vua này là Vua Thiền, nên có khi bị giặc đuổi trên sông nước, vẫn ung dung khắc thơ vào mạn thuyền. Theo GS Thuần thì ông Vua Thiền của chúng ta đã đưa vào trận mạc, vào chính sự, vào đời sống, vào hành động… tính không khiếp sợ của triết lý có-không trong Bát-nhã, “Bồ-tát nương trí tuệ Bát-nhã nên tâm không ngăn ngại; vì tâm không ngăn ngại nên không sợ hãi …”.

Cho nên khi Nhân Tông nói “Không” thì ngài lên Yên Tử, mà khi ngài nói “Có” thì đích thân ngài lãnh đạo chống xâm lăng. Mà đã nói “Có” thì tam thiên đại thiên thế giới đều nằm gọn trên một mũi kim, như Thiền tông nói.

Theo ý chúng tôi thì tinh thần nhập thế đời nhà Trần trong tinh thần “tùy duyên bất biến, bất biến mà tùy duyên” không phải theo quan niệm Nho giáo, một hệ thống triết học mang tính thực tiễn chính trị và xây dựng trên tư duy trật tự xã hội quân thần; khái niệm nhập thế của Thiền tông “thõng tay vào chợ” là nhằm phân biệt với khuynh hướng vô vi xuất thế của Lão Trang. Cả hai khái niệm nhập thế của Nho giáoxuất thế của Lão giáo không thể đồng nhất với khái niệm nhập thếxuất thế theo Phật giáo. Khái niệm nhập thế theo nhà Phật là trong tinh thần đã được nêu ở kinh Tương ưng bộ: “Này các Tỳ-kheo, hãy du hành, vì hạnh phúc cho quần sinh, vì an lạc cho quần sinh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiênloài người”6 .

GS Thuần băn khoăn “Còn ở ta đâu rồi cái cái vạm vỡ của dòng thiền Yên Tử? Trong tình trạng Phật giáo phát triển bề rộng mà thiếu chiều sâu như hiện nay, những cố gắng để làm sống lại tinh túy Yên Tử của Hòa thượng Thanh Từ phải được Phật tử xem như cố gắng của chính mình. Bất cứ người Việt Nam nào hãnh diện về lịch sử nước mình đều muốn nước mình có một triều đại rực rỡ như thế, nhất là trong tình trạng xâm lấn hiện nay. Triều đại rực rỡ đó đã được xây dựng trên một văn hóa rực rỡ”.

Hãy thổi vào nền kinh tế cái sức mạnhtinh thần của nền văn hóa Đông A với những giá trị cốt lõi: tận tụy, trung thực, vô tư, chân thành, trong sáng và lành mạnh!

Chú thích:
1. Tóm tắt theo Nguyễn Thế Đăng - Xã hội hài hòa - trong Con người toàn diện - Hạnh phúc toàn diện.
2. Trần Ngọc Ninh - Đức Phật giữa chúng ta, Nxb Lá Bối, Sài Gòn 1972.
3. Cao Huy Thuần - Khi tựa gối khi cúi đầu, Nxb Tri Thức, 2017.
4. Nguyên Cẩn - Biện chứng Trần Nhân Tông, tạp chí VHPG Việt Nam 2010.
5. Đại Việt sử ký toàn thư, tập 2 , Nxb Khoa Học Xã Hội, 1985.
6. Tương ưng bộ kinh, tập 1, Thích Minh Châu dịch, Trường CCPHVN ấn bản, 1982

Trích từ: Văn Hóa Phật Giáo Số 306 ngày 1-10-2018

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2649)
Ngoài Danh và Sắc, phần tâm linh và phần vật chất, là hai thành phần cấu tạo chúng sanh, Phật Giáo không chấp nhận
(Xem: 3147)
Ajhan Chah nói rằng nếu bạn muốn chuyển hóa tâm, bạn phải biết và chuyển hóa trái tim. Và khi thực hành bạn cảm thấy không thoải mái, muốn bỏ cuộc, đó là khi bạn biết mình đang đi đúng đường.
(Xem: 3647)
Giã từ cõi mộng điêu linh Tôi về buôn bán với mình phôi pha.
(Xem: 3258)
Những rộn ràng họp hội mấy giờ trước đã lắng xuống. Tiếng nói, giọng cười ai đó, đã tan vào hư không.
(Xem: 3329)
Những rộn ràng họp hội mấy giờ trước đã lắng xuống. Tiếng nói, giọng cười ai đó, đã tan vào hư không.
(Xem: 2928)
Học pháp là công việc quan trọng của người con Phật nếu muốn đạt được mục đích tối hậu của sự giải thoát.
(Xem: 3399)
Lắng nghe là một kỹ năng căn bản để kết nối cộng đồng. Lắng nghe để hiểu mình, hiểu người, để trút bỏ những ưu phiền, lạc quan vui sống, xây dựng xã hội tốt đẹp.
(Xem: 3736)
Pháp mang lại an bình, là nơi trú ẩn và hạnh phúc cho thế gian. Nếu thế giới bị tước đoạt Pháp, chúng ta không thể tìm thấy bất kỳ sự bình an nào ở đâu cả.
(Xem: 3567)
Vô Tầm Vô Tứ Định là nền tảng cơ bản của tất cả các loại Định trong Thiền Phật Giáo gồm chung cả ba hệ: Nguyên Thủy, Phát Triển và Thiền Tông.
(Xem: 3573)
Thiểu Dục là muốn ít; Tri túc là biết đủ. Muốn ít là đối với cái chưa có, mà vì nhu cầu, mong cho có.
(Xem: 2897)
Nói đến “Tâm” ai ai cũng hiểu được liền liền, nhưng đi sâu vào vấn đề là việc khác. Theo tôi được biết có nhiều người thường nói “Tâm” là (trái tim) có gì đâu mà diễn bày.
(Xem: 3556)
Theo nhà Phật thì trong kiếp này, có người “ở hiền” nhưng lại không được “gặp lành”, nguyên nhân là bởi họ phải “trả” những thứ đã “vay” ở trước đó!
(Xem: 3081)
Bồ tát là người tu tánh Không, ở trong tánh Không nhưng có lòng bi khi thấy chúng sanh vì không biết tánh Không nên điên đảo vọng tưởng
(Xem: 3602)
Kính số 52 Bát Thành có đoạn viết về sơ thiền một cách ngắn gọn như sau: “Ở đây, này Gia chủ, Tỷ-kheo ly dục, ly bất thiện pháp chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ”
(Xem: 3401)
Lời cầu nguyện được đức Đạt Lai Lạt Ma thứ mười bốn của Tây Tạng sáng tác, Vinh Danh và Nguyện Cầu Tam bảo Đại Bi: Đức Phật, Giáo Huấn, và Cộng Đồng Tâm Linh.
(Xem: 3388)
Cổ nhân có câu “họa tòng khẩu xuất” như muốn cảnh tỉnh, khuyên răn người đời chớ để cho cái miệng mình nói năng tùy tiện, lung tung mà có lúc tự rước họa vào thân!
(Xem: 3825)
Từ thuở ấu thơ cho đến lúc trưởng thành, có thể ai cũng từng được nghe những câu nói đại loại như: “Nếu không nói được gì tốt đẹp thì tốt nhất nên im lặng”.
(Xem: 3895)
Nếu kẻ nào cố ý tạo nghiệp, Ta nói rằng kẻ ấy phải thọ lấy quả báo. Hoặc thọ ngay trong đời hiện tại, hoặc thọ vào đời sau.
(Xem: 3275)
Trong Kinh Như Thị Ngữ (Itivutthaka), Đức Phật nói: "Tất cả những công đức mà ta thực hiện ở trên đời góp lại cũng không bằng công đức của sự thực tập Từ Quán.
(Xem: 3617)
Đức Phật khuyên ta mỗi ngày cần quán tưởng đến năm điều. Tất cả chúng ta đều biết những điều ấy, nhưng ta thường dễ quên.
(Xem: 3308)
Chủ đề khá nhạy cảm đã dẫn dắt vô số người trong quá khứ cũng như hiện tại; Phật tử cũng như tín đồ các Tôn giáo hiện nay ...
(Xem: 3133)
Trong Kinh Như Thị Ngữ (Itivutthaka), Đức Phật nói: "Tất cả những công đức mà ta thực hiện ở trên đời góp lại cũng không bằng công đức của sự thực tập Từ Quán.
(Xem: 3176)
Nếu bị người khác làm tổn thương, bạn vẫn cần yêu thương họ, nếu người khác khi dễ bạn, bạn phải tha thứ cho họ đấy gọi là rộng kết duyên lành.
(Xem: 4579)
Tuệ Trí của Đức Đạt Lai Lạt Ma là một phần trích từ xuất bản trước đó của quyển Năng lực của Từ bi
(Xem: 3553)
Quán niệm vô thường là một trong những nội dung tu tập căn bản của người Phật tử. Mọi sự mọi vật quanh ta luôn vận động, biến đổi từng phút, từng giây.
(Xem: 3102)
Xung quanh các hiện tượng mê tín dị đoan “có tổ chức” diễn ra gần đây, đã có nhiều ý kiến trái chiều về “con đường tu tập” với những...
(Xem: 4436)
Bụt đã từng sống với hàng ngàn vị khất sĩ túc trực xung quanh. Bụt cũng đi, cũng ngồi, cũng ăn cơm với những vị nam và nữ khất sĩ khác nhưng Ngài luôn an trú trong sự tĩnh lặng.
(Xem: 3356)
Chúng ta ai ai cũng biết, trong cuộc sống hiện tại đương thời, bây giờ là thời buổi khoa học đương thời đi lên.
(Xem: 3954)
Căn bản đời sống của chúng ta là đi tìm sự hạnh phúc và tránh né sự khổ đau, tuy nhiên điều tốt nhất mà ta có thể làm cho chính bản thân
(Xem: 4509)
Theo quan niệm của Phật giáo, Khổ (zh. 苦, sa. duḥkha, pi. dukkha) là cơ sở quan trọng của Tứ Diệu Đế.
(Xem: 3780)
Thoạt nhìn thì tánh Khôngtừ bi có vẻ ngược hướng nhau, vì tánh Không nhắm đến một thực tại tuyệt đối còn từ bi thì lại hướng về một thế giới và chúng sanh vô thường, tương đối.
(Xem: 3251)
Trong nền văn hóa của chúng ta, mọi người rất khó khăn để hướng sự yêu thương tử tế đến với chính bản thân họ.
(Xem: 3503)
Ngồi lắng lòng lại để cảm nhận từng hơi thở trong ta, nghe những thanh âm của cuộc sống và nghĩ về cuộc đời của những người ngoài kia,
(Xem: 3080)
Trong xã hội Ấn Độ thời cổ đại, vị trí người phụ nữ hãy còn thấp kém. Tôn giáo và các giáo phái đương thời không đồng tình cho người nữ xuất gia.
(Xem: 3283)
Trong đời sống thường nhật, nếu muốn được tự do tự tại tất phải thực hiện bằng được hai nguyên tắc “thiểu dục” và “tri túc”.
(Xem: 3766)
Theo lời Phật dạy, nhân quả là một định luật mang tính tất yếu. Gieo nhân lành thì được hưởng quả lành, tạo nhân ác thì chịu quả báo ác.
(Xem: 3754)
Phật dạy: “Không có gì là ngẫu nhiên”. Dường như nó cũng là một sự sắp xếp tưởng như vô tình mà lại hữu ý để loài người nhận ra những điều quan trọng, điều gì đó lớn hơn con virus...
(Xem: 3321)
Đã có quá nhiều bài trên các trang mạng nói đến chính giáotà giáo. Đứng góc độ nào để phân biệt chính và tà?
(Xem: 3201)
Theo Phật giáo, nghiệp là hành động có tác ý, chủ ý của thân (Kāya, 身), khẩu (Vacī, 口), ý (Mano, 意).
(Xem: 3185)
“Lại nói: Ta vừa khởi một tâm thì nó đã thuộc về quá khứ. Tâm ta chưa khởi mới gọi là vị lai. Chẳng phải tâm vị lai tức là tâm quá khứ, tâm hiện tại lại ở tại chỗ nào.
(Xem: 3117)
Phàm ở đời, những ai muốn xây dựng sự nghiệp lớn, đều phải có đức nhẫn nhục để vượt qua bao lần thất bại mới đạt được thành công.
(Xem: 3538)
Giữa tâm điểm đại dịch COVID-19 diễn ra một cách phức tạp trong đời sống thực tiễn không chỉ ở nước ta mà khắp cả các nước trên hành tinh này,
(Xem: 3374)
Muốn ít và biết đủ tiếng Hán gọi là “Thiểu dục-Tri túc”. Đây là hai khái niệm Phật học được đề cập nhiều trong Kinh tạng, Luật tạng cũng như trong Tạng vi diệu pháp.
(Xem: 3358)
Một người khi sắp mạng chung, hành trang để đi đến đời sống khác chắc chắn không phải là tiền bạc, danh vọng mà đó chính là nghiệp thiện hay ác của chính mình.
(Xem: 3450)
Dzongsar Khyentse Rinpoche lấy phim làm một ví dụ cho lời dạy của Đức Phật về luân hồi, niết bànbản thân đời sống.
(Xem: 3929)
Đức Phật nói rằng không thể có một đời sống tâm linh chân chính nếu không có một trái tim rộng lượng.
(Xem: 3400)
Giữa tâm điểm đại dịch COVID-19 diễn ra một cách phức tạp trong đời sống thực tiễn không chỉ ở nước ta mà khắp cả các nước trên hành tinh này,
(Xem: 3753)
Thật là một thảm họa khi tôi dự khóa tu thiền lần đầu tiên. Lưng tôi yếu sau nhiều năm ngồi gù lưng trước máy tính và ...
(Xem: 3406)
Muốn ít và biết đủ tiếng Hán gọi là “Thiểu dục-Tri túc”. Đây là hai khái niệm Phật học được đề cập nhiều trong Kinh tạng, Luật tạng cũng như trong Tạng vi diệu pháp.
(Xem: 3457)
Theo Tứ phần luật thì nguyên nhân Phật chế định sự an cư là do nhóm sáu người gọi là lục quần Tỳ kheo thường du hành trong nhân gian,
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant