Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phản Ứng Với Tình Trạng Trung Ấm Thân

01 Tháng Giêng 201905:05(Xem: 6101)
Phản Ứng Với Tình Trạng Trung Ấm Thân

 

PHẢN ỨNG VỚI TÌNH TRẠNG TRUNG ẤM THÂN

 

Nguyên bản: Reacting to the Intermediate State

Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma

Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D.

Chuyển ngữ: Tuệ Uyển

Phản Ứng Với Tình Trạng Trung Ấm Thân

 

Những người nào xác định “tôi sẽ chết” sẽ không lo sợ nữa

Làm thế nào họ kinh hãi ngay cả những viễn tượng của sự chết!

-ĐỨC PHẬT-

 

-***-

 

Thi Kệ 14

 

Xin cho tôi hoàn thiện thể trạng trung ấm thân

Thiền định về vọng tưởng vì thế trên việc rời khỏi linh quang

Chúng tôi thành đạt một Thọ Dụng Thân sáng chói với sự huy hoàng của những biểu hiện và hảo tướng của một Đức Phật

Phát sinh thuần khiết từ gió năng lượngtâm linh quang của sự chết

 

Khi hành giả thành tựu việc thực chứng tánh không bằng tâm vi tế nhất, họ cũng thành đạt trong một thân tương ứng thuần khiết từ gió năng lượng và tâm, được tô điểm bằng những biểu hiện và hảo tướng của một Đức Phật. Đây không chỉ là sự quán tưởng hay giả tướng, nhưng thực tế. Thay vì đi vào một thể trạng trung ấm, hành giả vươn lên từ trạng thái chết trong những gì chúng ta gọi là thân giả huyển, đúng vị trí của thể trạng trung ấm thân. Có thể có hai loại khác nhau – hoặc là một thân giả huyển bất tịnh hay Thọ dụng thân của một Đức Phật. Thi kệ này là một nguyện ước để hoàn thành sự chuyển hóa thậm thâm như vậy.

 

Tâm linh quang và gió năng lượng phục vụ như khung giá của linh quang là một thực thể, nhưng chúng có thể được phân chia một cách khái niệm. Gió năng lượng phục vụ như nhân chính yếu của một thân giả huyển, trái lại tâm phục vụ như nhân bổ trợ của một thân giả huyển. Đây là hai nhân sản sinh một thân giả huyển tương tự trong phương diện thân thể của một bổn tôn mà hành giả đã từng quán tưởng qua sự thực hành về bổn tôn du già. Đó không phải là một thân thể của thịt và xương. Nó có một bản chất tương tự như gió và tâm, trong suốt và không cản trở như cầu vồng.

 

Sự xuất hiện của một chúng sanh lý tưởng, bổn tôn, được nói là giống như sự xuất hiện bất ngờ của một con cá nhảy ra khỏi hồ trong hình tướng trọn vẹn. Từ lâu rồi hành giả đã hành thiền về chính mình như một bổn tôn đặc thù, việc trau dồi hiện tướng ấy, việc quán tưởng thân lý tưởng này là việc chuẩn bị cho sự chuyển hóa này. Mục tiêu của sự thực tập này cuối cùng được nhận ra. Sự mô phỏng đã đưa đến hiện thực.

 

NHỮNG TRÌNH ĐỘ THỰC TẬP

 

Từ trước đến nay, tôi đã cố gắng để nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thực hànhtrình độ tự nhiên của mỗi người. Trong Tantra Yoga Tối Thượng có 3 trình độ. Ở điểm này, chúng ta quan tâm đến những hành giả đã đạt được trình độ thành thạo cao cấp nhưng chưa thể thành tựu kỳ công tối thượng của Quả Phật trong kiếp sống này. Những người như vậy bắt đầu để chết vì năng lực của những nghiệp nhiễm ô và những cảm xúc phiền  não, nhưng nếu họ có thể chuyển hóa tâm linh quang mẹ của sự chết thành tâm linh quang con của con đường tu tập, thì họ có thể bỏ qua thể trạng trung ấm thông thường dẫn đến tái sanh, và thành tựu một thân giả huyển thật sự, không phải là thứ chỉ do tưởng tượng.

 

Hành giả của trình độ tiếp theo (được thảo luận trong thi kệ tiếp theo) thì không thể chuyển hóa tâm linh quang của sự chết thành một thể trạng tâm đạo – và do vậy không thể đưa đến việc thành tựu một thân giả huyển – nhưng vẫn không phải chịu một sự chết thông thường. Hành giả này có thể chuyển hóa tâm linh quang của sự chết thành một hình thức của con đường tu tập, mặc dù không thể sản sinh một thân giả huyển. Hành giả có thể biểu lộ, không phải thực tế mà trong sự quán tưởng, trong một thân giả huyển trong thời kỳ của một thể trạng trung ấm thân. Một hành giảtrình độ này có thể chọn lựa hình thức của sự tái sanh qua năng lực của từ bi, nguyện ước, và chánh niệm.

 

Hành giả của trình độ tiếp theo (được thảo luận trong thi kệ 16) không thể chuyển hóa tâm linh của sự chết thành bất cứ con đường trọn vẹn phẩm chất nào nhưng có thể, sau thời điểm không tự giác trong phần sau của tâm đen gần thành tựu, để phát sinh chánh niệm về sự thực hành Mật tông trong một hình thức nào đó trong thời gian biểu hiện linh quang. Người này đi vào một thể trạng trung ấm thông thường và có sự tái sanh trong một cung cách thông thường, nhưng có thể phát sinh sự thực tập lợi ích qua những khuynh hướng lành – năng lực phóng chiếu của những hành vi quá khứ - và sự hội tụ của những hoàn cảnh nội tại và ngoại tại.

 

Tất cả ba trình độ đang mong cầu để phát sinh ý thức linh quang vào trong một tuệ giác thực chứng tánh không, do vậy trước những giai đoạn hòa tan, tất cả ba trình độ trở thành chánh niệm về tánh không. Một cách đặc biệt trong những sự hòa tan của đất, nước, lửa và gió và sự xuất hiện của 4 trống rỗng – tâm bầu trời trắng xuất hiện, bầu trời đỏ cam gia tăng xuất hiện, bầu trời đen gần thành tựu xuất hiện, và linh quang – chúng phát sinh năng lực của chánh niệmquán chiếu về tánh không của sự tồn tại cố hữu, mô thức bất tử của chúng sanh vốn là bản chất của tất cả mọi hiện tượng.

 

trình độ cao nhất của hành giả là có thể chuyển hóa linh quang của sự chết thành một ý thức nhận ra tánh không, cho nên điều này hành động như một sự đối trị với tính bất lực của sự chết. Từ lúc ấy, ta không còn bị xúc cảm với sự sanh và tử nữa. Bản chất chân thật của mọi hiện tượng, được quán chiếu trong cách này, sinh ra bất diệt (hậu quả, nó được gọi là “bất tử” trong thi ca).

 

Sự chết ló dạng trong các giai đoạn, từ sự hòa tan của đất thành nước, xuyên quabao gồm sự ló dạng của linh quang. Sau đấy, trong những trường hợp của sự chết bình thường (không phải sự chết của những hành giả tu tập cao siêu nhất) 8 giai đoạn xảy ra trong trình tự ngược lại: đi qua từ linh quang đến tâm bầu trời đen gần thành tựu, đến hiện tướng đỏ-cam, hiện tướng trắng, ngọn đèn, đom đóm, luồng khói, đến ảo giác. Vào lúc kết thúc của một sự chết bình thường, 3 sự kiện xảy ra đồng thời: (1) linh quang lụi tàn, (2) ta trổi dậy từ linh quang của sự chết vào trong tâm bầu trời đen linh động gần thành tựu, và (3) thể trạng trung ấm thân bắt đầu (sau điều mà những bước khác đi ngược lại xảy ra). Trong một cách tương tự, một hành giả du già - ở trình độ thứ nhất của sự thực hành Tantra Yoga Tối Thượng nhưng trú trong linh quang ẩn dụ - đồng thời sinh khởi từ linh quang thành gần-thành tựu, tạo nên một thân giả huyển. Tuy nhiên, một hành giả của trình độ thứ nhất của Tantra Yoga Tối Thượng vốn vươn lên từ linh quang thật sự không đi ngược lại tâm gần thành tựu và v.v…; tất cả những trình độ thô của tâm đã chấm dứt.

 

TOÁT YẾU QUÁN CHIẾU

 

1-    Những hành giả phát triển cấp cao có thể sử dụng linh quang thông thường của sự chết và gió năng lượng mà nó cưỡi trên đó như những nhân chính yếu của tâm và thân thanh tịnh, một cách tương ứng.

2-    Để có thể vươn lên từ bên trong tâm linh quang trong một thân thể thanh tịnh được tạo hình từ gió năng lượng, thì cần thiết trước tiên phải thực tập quán tưởng tự ta như có thân và tâm với động lực vị tha. Là thứ được tiến hành trong sự mô phỏng cuối cùng đưa đến điều được hoàn thành trong thực tế.

3-    Việc đem đến sự chuyển hóa cuối cùng đòi hỏi không được di chuyển ngược lại từ tâm linh quang bẩm sinh căn bản đến một trình độ thô của tâm. Điều này này sinh ra một thể trạng bất tử.

 

-***-

 

Thi kệ 15

 

Nếu, qua nghiệp, một thể trạng trung ấm thân được thiết lập,

Nguyện cho những hiện tướng sai lầm được tịnh hóa

Qua sự phân tích tức thờithực chứng việc vắng mặt của sự tồn tại cố hữu

Của những khổ đau của sanh, tử và thể trạng trung ấm thân.

 

Vào lúc kết thúc của thời điểm mà tâm tinh tế nhất còn trong thân thể, có một chuyển động nhẹ của gió năng lượngtâm linh quang cưỡi trên ấy, và gió vi tế nhất và thức vi tế nhất để lại những hạt trắng và đỏ đã mở tại trái tim và thoát khỏi thân thể. Một chút máu xuất hiện ở lỗ mũi và một chút tinh chất lỏng trắng nổi lên từ bộ phận sinh dục, biểu thị rằng cấp độ cuối cùng của thức đã rời thân thể; mặc dù những dấu hiệu này có thể không xảy ra đối với những người mà thân thể đã bị tàn phá bởi bệnh tật. Đến lúc này thân thể bắt đầu bị phân hủy và có mùi hôi.

 

Việc tốt nhất mà những hành giả du già không đạt được Quả Phật trong kiếp sống của họ là thành tựu một thân giả huyển thay cho thân trung ấm. Những người thông thường không thể sinh khởi trong một thân giả huyển vì họ chưa đạt được những sự thực chứng cao cấp [cho nên] đi vào một thể trạng trung ấm qua năng lực của nghiệp. Nếu điều này xảy ra, ta nên nhận biết và thấu hiểu tình trạng của ta.

 

Khi linh quang chấm dứt và 7 giai đoạn còn lại bắt đầu ló dạng trong trình tự ngược lại, việc này đánh dấu sự bắt đầu của thể trạng trung ấm. Ở đây, vào lúc mở đầu trạng thái của những kiếp sống, ta đi qua 8 giai đoạn giống như ta làm khi thức giấc, bắt đầu một giấc mơ, đi đến từ uể oải, và nổi lên từ cực điểm.

 

8- Linh quang

7- Tâm bầu trời đen sống động

6- Tâm bầu trời đỏ-cam sống động

5- tâm bầu trời trắng sống động

4- Ngọn lửa của cây đèn dầu

3- Đom đóm

2- Luồng khói

1- Ảo giác

 

Giống như ta làm khi đi ngủ, ta tái xuất hiện với một thân mộng, cũng vậy trong thể trạng trung ấm ta đột nhiên có một thân thể giống như thân thể ta sẽ được tái sanh. Thân thể này thường giống như thân thể tương lai của ta khoảng 5 hay 6 tuổi. Giống như một thân mộng ảo, nó được làm từ sự phối hợp của gió năng lượng và tâm. Gió mà trên đó tâm linh quang cưỡi lên là nhân chính yếu của thân thể đó, nhưng cũng là một nhân bổ trợ góp phần cho tâm của thể trạng trung ấm. Tâm linh quang, ngược lại, là nhân chính yếu của tâm của trung ấm thân và nhân bổ trợ đóng góp cho thân của chúng sanh trong trạng thái trung ấm.

 

Có một tu sĩ công chức từ dòng Hoàng Mạo, một hành giả gương mẫu và cũng là can đảm. Khi quân Trung Cộng tiến vào Chamdo ở tỉnh Kham của Tây Tạng và “giải phóng” nó, ông là một thuộc hạ của đại diện chính quyền Tây Tạng gần vùng đó. Vị đại diện cảm thấy rằng thật quan trọng để gặp người Trung Cộng và hỏi các thuộc hạ của ông ta rằng có người nào sẳn lòng để gặp họ không, nhưng mọi người ngoại trừ vị tu sĩ công chức này và một người khác đều sợ đi. Người đáng tin cậy và can đảm này đã kể lại với tôi rằng trong một trường hợp mẹ ông ta đã nói với ông rằng, “tôi sẽ ngủ thật sâu và đừng chạm vào thân thể tôi.” Trong một tuần bà ta ngủ sâu, sau đó bà thức dậy. Trong tuần lễ đó, tâm linh của bà đã thăm viếng nhiều nơi. Con trai bà ta không có lý do gì để nói dối với tôi, và ông không chỉ báo cáo một tin đồn. Đây không phải là trường hợp của việc chết lâm sàng và trở lại từ sự chết nhưng giống nhất với một thân thể mộng ảo đặc biệt.

 

Trong thể trạng trung ấm, vì thân thể ta được tạo hình từ gió và tâm, cho nên ta có tất cả 5 giác quan, nhưng thân thể ta trong suốt như cầu vồng, không có bóng (trên nền), và ta không để lại dấu chân. Qua năng lực mầu nhiệm của nghiệp, ta tự nhiên được ban cho quyền năng du hành trong một thời gian rất ngắn chung quanh hay  xuyên qua hệ thống thế giới này không bị cản trở bởi đất, đá, núi non và nhà cửa, tuy thế, khi ta đi vào bào thai của bà mẹ mới thì ta không thể ra được. Mặc dù ta nói chuyện với người thân, bè bạn, và những người khác, nhưng họ không thể nghe và vì vậy trả lời lại. Ta không thấy mặt trời, mặt trăng, hay những vì sao. Mặc dù ta chưa từng có thần thông trước đây, nhưng ta bây giờ ta có thần thông một cách giới hạn.

 

Nếu ta thấy rằng ta biểu lộ những dấu hiệu của một chúng sanh trong thể trạng này, thì ta nên nghĩ rằng, “ta đã chết và bây giờ ta đang ở trong thể trạng trung ấm.” Hãy sử dụng năng lực của chánh niệm để nhận ra rằng những hiện tướng của vui và buồn trong thể trạng trung ấm là những tạo tác của một tâm sai lầm, và hãy sử dụng chánh niệm để thấu hiểu rằng không có gì để dính mắc vào niềm vui, hay sân hận bởi những điều không vừa ý. Thay vì thể hảy quán tưởng rằng ta đã vươn lên trong một thân giả huyển, việc nhận ra rằng những hiện tướng đủ loại và các khổ đau của sự chết, trung ấm thân, và tái sanh là không có sự tồn tại cố hữu, rằng chúng không là chân lý. Hãy biết rằng những hiện tướng này là do những hành động quá khứ (nghiệp), trong thực tế, vốn ngay cả không có một chút nào được thiết lập thật sự.

 

Giống như trong bổn tôn du già ta quán tưởng một cách năng động rằng mọi thứ là thuần khiết vô giới hạn, được tạo thành từ tuệ trítừ bi, cho nên ở đây trong thể trạng trung ấm ta nhìn tất cả mọi hiện tướng của chúng sanh như chư thiên nam và thiên nữ và tất cả những hiện tướng của môi trường như những dinh thự kỳ diệu, do vậy tự thoát khỏi bất cứ sự không thích nào vì xấu xí hay sự hấp dẫn của xinh đẹp. Ta đang tìm kiếm để làm bất cứ sự xuất hiện nào ló dạng như trống rỗng sự tồn tại cố hữu và bất cứ gì là trống rỗng hiện ra như sự vui đùa của an lạc, sự giải trí của một bổn tôn.

 

TOÁT YẾU QUÁN CHIẾU

 

1-    Thật quan trọng để nhận ra những dấu hiệu rằng ta đang ở trong trạng thái trung ấm.

2-    Hãy xem tất cả những hiện tướng vui và khổ và những trải nghiệm như các biểu lộ của chính nghiệp tốt và xấu của tự thân.

3-    Ở vị trí của những gì được trình bày cho ta, hãy quán tưởng rằng ta đã vươn lên trong một thân giả huyển, việc quán tưởng tất cả những hiện tướng của các chúng sanh như những biểu hiện lý tưởng của tuệ trítừ bi và tất cả những hiện tướng của môi trường như những lâu đài kỳ diệu.

4-    Tránh việc không thích xấu xí hay thích thú xinh đẹp.

5-    Hãy nhận ra rằng các hiện tướng đa dạng và khổ đau của sự chết, trung ấm thân, và tái sanh là trống rỗng sự tồn tại cố hữu; chúng không tồn tại trong năng lực của chính chúng.

 

-***-

 

Thi kệ 16

 

Nguyện cho chúng tôi được sinh ra trong một vùng đất tinh khiết

Qua việc chuyển hóa du già ngoại tại, nội tại và bí mật

Khi những dấu hiệu đa dạng – 4 âm thanh của sự đảo ngược của 4 yếu tố

Ba hiện tướng sợ hãi, và những điều không xác thực – xuất hiện

 

Trong khi ta sống, tất cả những luồng gió năng lượng và các nhận thức bị chìm trong những mô thức thông thường và không ở dưới sự kiểm soát của ta. Trong thể trạng trung ấm, các luồng gió, hay năng lượng, phối hợp với 4 yếu tố đảo ngược mô thức bình thường của chúng, và những âm thanh khiếp đảm nổi lên từ sự đảo ngược này.  Khi đất-gió tan ra, một âm thanh như các ngọn núi đổ sụp ầm ầm ồn ào. Khi nước-gió tan rả, một âm thanh như đại dương gảy vụn náo động. Khi lửa-gió tan rả, một âm thanh như lửa cháy trong một cánh rừng dày đặc giận dử. Trong sự tan rả của gió-gió, một âm thanh như sự tru tréo của cơn cuồng phong khủng khiếp. Cũng có những hiện tướng khiếp đảm của các chúng sanhđịa ngục, ngạ quỷ, và thú vật vốn là sự phóng chiếu của chính nghiệp cảm của chúng ta. Một hiện tướng nào đó như Thần Chết, vung vũ khí của họ và hô lên, “Tấn công! Giết,” và ta sợ hãi.

 

Nơi chốn, lòng tin, thái độ, thực phẩm, bè bạn và cảm giác của ta hoàn toàn không chắc chắn. Sự không xác thật của nơi chốn có nghĩa rằng ta liên tục đến những nơi nào đó. Không chắc chắn lòng tin có nghĩa rằng ta tìm kiếm sự nương tựa trong chốc lát: những cây cầu, cái giếng, và v.v… Không xác thật thái độ có nghĩa rằng ta thay đổi đột ngột và phảng phất như một chiếc lông chim trong gió. Thực phẩm không chắc chắn có nghĩa rằng ta thấy thức ăn ngon lành nhưng không thể ăn ngoại trừ chúng được dành cho ta. Bạn bè không chắc chắn có nghĩa rằng ta kết giao chung đụng với những người nào đó ngẫu nhiên. Những cảm giác không chắc thật có nghĩa rằng ta trải nghiệm những thay đổi đột ngột trong tâm trạng – khi thì vui vẻ, thỉnh thoảng đau đớn, lúc thì buồn, giận, và v.v…

 

Thêm nữa, trong thể trạng trung ấm có 3 thứ khe núi sợ hãi xuất  hiện – một khe núi đỏ nếu ta bị khống chế bởi tham dục, một khe núi xám nếu ta bị khống chế bởi si mê, và một khe núi đen nếu ta bị không chế bởi thù hận. Cũng có 4 con đường biểu thị cho kiếp sống tới. Nếu ta đi vào đó là một con đường với ánh sáng trắng, đó là dấu hiệu rằng ta sẽ được sanh ra như một vị thiên tử hay a tu la. Nếu con đường màu vàng, kiếp tới của ta sẽ là một con người hay một con thú. Nếu con đường ánh sáng đen, biểu thị rằng sự tái sanh sẽ là địa ngục. Nếu con đường với ánh sáng đỏ, cho thấy rằng sự tái sanh sẽ là ngạ quỷ.

 

Trong thể trạng trung ấm, màu sắc thân thể của một người nào đó được tái sanh vào địa ngục như khúc gỗ cháy; như một con thú, giống luồng khói; như ngạ quỷ, giống nước; như thiên tử của dục giới hay như một con người, giống màu vàng kim; như thiên tửsắc giới, màu trắng. Những phương hướng chuyển động của ta cũng phản chiếu sự tái sanh của ta. Những hình thể trung ấm của chúng sanh địa ngục, ngạ quỷ, và súc sanh đầu cúi xuống phía trước. Những hình thể chư thiên dục giới (những tình trạng tái sanh được đặc trưng bởi sự thụ hưởng cao) và con người đi thẳng phía trước. Những thể trạng trung ấm của chư thiên sắc giới (những trạng thái tái sanh được đặc trưng bởi xu hướng thiền định) đi [ngước] lên.

 

Thể trạng trung ấm có thể ngắn như một khoảnh khắc, đặc biệt nếu nghiệp đạo đức của ta mạnh mẽ đầy đủ, như sẽ là trường hợp khi ta đã phát lòng từ ái và bi mẫn đầy năng lực, hay phát triển một nguyện ước mạnh mẽ để được tái sanh vào cõi Tịnh Độ, hay khi xu hướng của ta là được tái sanh vì lợi ích của những người khác là có sức mạnh. Trung ấm thân cũng có thể ngắn như một khoảnh khắc nếu nghiệp không đạo đức của ta là mạnh mẽ đặc biệt, thí dụ, giết cha hoặc mẹ. Trái lại, bị lèo lái bởi nghiệp trong những mức độ hay thay đổi của tối tăm hay sáng sủa, thì ta sẽ lao vào việc tìm kiếm một hoàn cảnh cho tái sanh. Nếu không tìm được trong 7 ngày, trung ấm thân sẽ chết. Giống như khi ta bắt đầu thức dậy từ giấc ngủ, thân mộng ảo tan biến như hơi thở trên tấm gương, thân-gió [năng lượng] của ta trong thể trạng trung ấm tan biến từ dưới cùng và trên cùng, chấm dứt tại tim. Trong sự chết nhỏ này, ta nhanh chóng qua 8 giai đoạn của sự chết trong trình tự tiến tới, nhưng ta tái xuất hiện trong một thể trạng trung ấm mới – một lần nữa đi qua trình tự ngược lại. Trong phần lớn, tiến trình 7 ngày này có thể tiếp tục qua 7 “sự tái sanh” như vậy trong thể trạng trung ấm, diễn ra trong 49 ngày. Một số người nói rằng một ngày ở đây tương ứng với một ngày cho loại chúng sanh mà ta sẽ được tái sanh – điều này là cực kỳ dài cho một số chúng sanh – nhưng những người khác nói rằng nó là chiều dài của một ngày của con người.

 

Trở lại thi kệ: Ở giữa những hiện tướng đa dạng này, ta đang tìm cầu để duy trì tĩnh lặng và để làm (1) môi trường bên ngoài của ta xuất hiện những lâu đài và vùng lân cận kỳ diệu vô giá, (2) những chúng sanh nội tại (chẳng hạn như chúng sanh địa ngục, ngạ quỹ, súc sanh, loài người, a tu la, và chư thiên) xuất hiện như những bổn tôn (những chúng sanhbản chất của họ là từ bitrí tuệ), (3) bí mật (sự tỉnh thức và các tư tưởng của chính ta) xuất hiện như thiền định hỉ lạc thực chứng về tánh không. Vì vậy, bất chấp dấu hiệu gì xuất hiện đi nữa, thì chúng có thể được đảo ngược bằng sự thực tập, qua điều mà không nghi ngờ gì ta sẽ được tái sanh trong một kiếp sống tốt đẹp. Qua năng lực của của ba quán tưởng du già ngoại tại, nội tại, và bí mậttinh khiết, ta đang mong cầu để đóng lại cánh cửa với kiếp sống nhiễm ô trong cõi luân hồi, và, thay vì thế được tái sanh trong vùng đất siêu việt đặc biệt vượt khỏi nghiệp nhiễm ô và những cảm xúc phiền não, nơi ta có thể tiếp tục thực tập.

 

TOÁT YẾU QUÁN CHIẾU

 

1-    Hãy chuẩn bị rằng trong thể trạng trung ấm có thể có nhiều hiện tướng bất thường, cả diệu kỳ lẫn khủng khiếp. Hãy thấu hiểu rằng bây giờ bất cứ hiện tướng nào đều có thể được chuyển hóa bởi sự quán tưởng của ta.

2-    Hãy tĩnh lặng. Hãy quán tưởng môi trường như những dinh thự xinh đẹp trải dài trong một phong cảnh thanh bình. Hãy thấy các chúng sanh như có bản chất của từ bitrí tuệ. Hãy xem sự tỉnh thức của chính ta như một tâm an lạc thực chứng tánh không.

3-     Điều này sẽ mang lại một sự tái sanh trong một nơi mà ta có thể tiếp tục sự thực tập đối với sự thực chứng tâm linh sâu xa hơn.

 

Ẩn tâm lộ, Saturday, December 8, 2018

 

-***-

 

HƯỚNG DẪN VỀ SỰ CHẾT ĐỂ SỐNG TỐT ĐẸP HƠN

                                                             

Nguyên bản: Advice on Dying and Living a Better Life

Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma

Anh dịch và hiệu đính: Jeffrey Hopkins, Ph. D.

Chuyển ngữ: Tuệ Uyển

 

MỤC LỤC

01- Tỉnh thức về sự chết

02-  Giải thoát khỏi sự sợ hãi

03-  Chuẩn bị để chết

04-  Loại trừ những chướng ngại đến cái chết có lợi

05- Thành tựu những điều kiện thuận lợi cho thời điểm lâm chung

06-  Hành thiền trong khi đang chết

07-  Cấu trúc bên trong

08-  Linh quang của sự chết

09-  Phản ứng với tình trạng trung ấm thân

10-  Đón nhận một sự tái sanh tích cực

11-  Thi kệ quán chiếu hàng ngày

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 595)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 779)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1100)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1268)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 997)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1339)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 789)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 763)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 807)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 823)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 802)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 790)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 947)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 834)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 988)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 1007)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 929)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 931)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 858)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 1014)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 954)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 897)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 995)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 910)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 850)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 958)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 884)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1143)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 914)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 1016)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1154)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1616)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1164)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1260)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1113)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 977)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 919)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 960)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 804)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1486)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1366)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1330)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1274)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1379)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1333)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1478)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1355)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1208)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1267)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1326)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant