Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Bài Mới Nhất trang Văn Học
Điền Email để nhận bài mới

Hoà Bình và Từ Bi

20 Tháng Bảy 201902:39(Xem: 3489)
Hoà Bình và Từ Bi

HÒA BÌNH VÀ TỪ BI

Nguyên bản: Peace and Compassion/ Madison 2008

Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma

Chuyển ngữ: Tuệ Uyển

 

*

 

Anh chị em thân mến, thật sự, tôi rất, rất vui mừng và rất vinh dự để nói chuyện với quý vị. Tôi không nói gì đặc biệt, chỉ là những kinh nghiệm thông thường. Tôi đến đây là lần thứ bảy. Và mỗi lần như vậy, những người ở đây biểu lộ với tôi những cảm nhận nhân bảnthân hữu chân thành. Vì thế, cũng tự nhiên thôi, đó là lý do tại sao tôi cảm thấy hạnh phúc bất cứ khi nào tôi nhận được lời mời. Cho nên tôi rất, rất là vui mừng.

 

Cùng lúc đó, khi tôi thấy đông đảo mọi người đến để nghe tôi nói chuyện. Tôi luôn luôn làm rõ rằng, trước tiên nhất, là hoàn toàn đúng đắn để đến đây vì tò mò. Rồi thì, có lẽ, một số người đến đây để nhìn Đức Đạt Lai Lạt Ma xem ông ấy nói gì. Điều đó cũng hoàn toàn đúng đắn, rất tốt. Bất cứ khi nào tôi nói chuyện đặc biệt là về vấn đề Tây Tạng, tôi nói một cách chân thật. Tôi nói về công lý. Cho nên, bất cứ người nào muốn biết thêm về những gì Đức Đạt Lai Lạt Ma đang suy nghĩ thì được hân hoan chào đón nhất.

 

Nhưng một số người cũng đến với niềm tin rằng Đức Đạt Lai Lạt Ma có một năng lực mầu nhiệm nào đó. Loại thái độ ấy là nguy hiểm. Tôi không có năng lựcđặc biệt – không có gì cả! Nếu tôi có những năng lực mầu nhiệm thật sự, tôi có thể không phải đối diện với những rắc rối này. Nhưng rõ ràng, có nhiều rắc rối mà tôi đang phải đối diện – không phải là những thứ cá nhân của tôi nhưng là những thứ đến vì cái tên Đức Đạt Lai Lạt Ma và những trách nhiệm của cái tên ấy. Đơn giản  tôi chỉ là một người bình thường. Do bởi thế, tôi đơn giản đang đổi diện một số vấn nạn, đôi khi là những vấn nạn không cần thiết ở đấy.

 

Rồi thì, có một vấn đề khác. Một số người đến để thấy tôi với niềm tin rằng Đức Đạt Lai Lạt Manăng lực chửa bệnh. Điều đó là vớ vẫn. Dĩ nhiên, trước tiên nhất, tôi không tin trong những năng lực chửa bệnh như vậy. Chỉ chạm vào một người nào đó một cách vật lý và chửa lành một căn bệnh là không thể có. Nếu có những người thật sự có những năng lực chửa bệnh như vậy, thế thì sau cuộc hội họp này, tôi muốn gặp họ, bởi vì, quý vị thấy, ở đây là ngón tay nhỏ bé của tôi. Trong một lần tôi viếng Hoa Kỳ, tôi đã gặp một người Mông Cổ, tôi đã bắt tay với người đó một cách thông thường, nhưng người đàn ông ấy không buông tay tôi ra. Và bây giờ như một kết quả, ngón tay tội nghiệp của tôi hơi bị tổn thương. Cho nên nếu có người nào đó có năng lực chửa bệnh, thì đây là cơ hội tốt để thừ nghiệm (Cười) Tôi không có gì đặc biệt, và bài nói chuyện của tôi cũng là một loại kinh nghiệm thông thường.

 

Rõ ràng, mọi người – cho dù là Đông hay Tây, giàu hay nghèo, có học vấn hay không, có tín ngưỡng hay không tín ngưỡng – đều muốn một đời sống hạnh phúc. Và tôi nghĩ mọi người thậm chí muốn một giấc mơ hạnh phúc. Trong giấc mơ của chúng ta, chúng ta muốn hạnh phúc. Tôi tin rằng mục tiêu chính yếu của cuộc sống chúng ta – nói một cách phổ thông từ một quan điểm thế tục – là đế có một đời sống hạnh phúc. Nếu người nào đó thật sự đánh mất  hy vọng, thế thì chính thái độ đó đã làm ngắn lại tuổi thọ của họ. Trong trường hợp tệ hại nhất, tự tử cũng có thể xảy ra. Do vậy, mặc dù không có gì bảo đảm cho hạnh phúc hay một cuộc sống hạnh phúc, nhưng chúng ta tồn tại trên căn bản của hy vọng cho sự tốt đẹp hơn. Hy vọng có nghĩa là điều gì đó tốt đẹp. Thế nên, căn bản sự tồn tại của chúng ta là rất căn bản dựa trên hy vọng trong việc tìm ra một đời sống hạnh  phúc.

 

Nhằm để đạt được một đời sống hạnh phúcthoải mái, tựu trung chúng ta tin tưởng rằng những tiện nghi vật chấtcăn bản. Tôi nghĩ chúng ta đến từ một xã hội hay cộng đồng hay thế hệ nơi mà những tiện nghi vật chất đang thiếu thốn. Vì thế xu hướng tinh thần của chúng tatìm ra những tiện nghi khác – hơn là thêm tiền bạc, thêm tiền bạc nữa. Hay thí dụ, quan tâm hàng đầu của một người đói là thức ăn, thức ăn, thức ăn. Nhưng bây giờ, dường như rằng con người từ những gia đình hay xã hội vốn bị ảnh hưởng bởi vật chất và có mọi tiện nghi vật chất cũng đang bắt đầu hiểu được sự giới hạn của những giá trị vật chất. Điều này hoàn toàn tự nhiên. Những tiện nghi vật chất bên ngoài chỉ có thể cung ứng thoải mái trên trình độ vật lý.

 

Một cách căn bản chúng ta là những tạo vật xã hội. “Tạo vật xã hội” có nghĩa là tương lai hay sự cát tường của mỗi cá nhân lệ thuộc vào một nhóm con người. Do vậy, đó chính là bản chất tự nhiên của chúng ta. Nhưng cá nhân con người đôi khi đánh mất khái niệm đó. Cá nhân trở nên quan trọng hơn phần còn lại của cộng đồng. Cho nên thay vì tôn trọng hay quan niệm rằng cộng đồngcăn bản của tương lai họ, thì họ lại lợi dụng, bóc lột, và bắt nạt những kẻ khác.

 

Và vì thái độ tin thần của chính chúng ta là như thế, cho nên rất có thể chúng ta trở thànhấn tượng rằng những người khác cũng có thái độ tương tự như vậy – rằng họ chỉ bóc lột hay lợi dụng ta. Qua niềm tin đó, chúng ta tự nhiên lớn lên nổi sợ hãi, nghi ngờ, và xa cách với người khác. Sâu thẩm bên trong, điều đó mang đến một cảm giác của cô đơn và bất lực. Một khi chúng ta ở trong một tình trạng tinh thần khổ não như vậy, thì chúng ta chán chường. Điều đó mang đến sân hận. Điều đó tàn phá sức khỏe và những mối thân hữu. Cho nên loại thái độ này rất chống lại căn bản tự nhiên của chúng ta như một tạo vật xã hội. Do bởi căn bản tự nhiên của chúng ta như những tạo vật xã hội, thì chúng ta phải có những cảm giác thật gần gũi đối với cộng đồng của chúng ta. Thái độ tinh thần đó thường được chúng ta gọi là tình cảm hay thương cảm.

 

Nếu chúng ta mở rộng cảm nhận quan tâm chân thành của chúng ta với sự tôn trọng, thì điều đó mang đến mối thân hữutin tưởng chân thành. Liên tục sợ hãi, sân hận, hay thù oán là rất tệ hại cho sức khỏe của chúng ta. Một số nhà khoa học có một lần đã nói với tôi rằng, sân hận, thù oán, và sợ hãi thật sự ăn mòn những hệ thống miễn nhiễm của chúng ta. Ngay cả nếu chúng ta có mọi tiện nghi vật chất và nằm nghĩ trên một chiếc giường thoải mái, nhưng nếu chúng ta đầy sợ hãisân hận, thì hệ thống miễn nhiễm của chúng ta sẽ giảm thiểu. Trái lại, nếu chúng ta chỉ nghèo tiện nghi nhưng đầy tự tin, hạnh phúc, khuyến khích tốt đẹp, thế thì hệ thống miễn nhiễm của chúng ta duy trì cát tường. Cho nên, sức khỏe thân thể chúng ta cũng rất liên hệ với thái độ tinh thần của chúng ta.

 

Tôi thường đề cập một nghiên cứu đặc thù được tiến hành bởi một nhóm nhà khoa học, ở đấy họ đem những con khỉ trẻ nào đó, và để vài con với bà mẹ chúng, và vài con khác bị tách khỏi mẹ. Những con khỉ con ở với khỉ mẹ thì luôn luôn vui đùa hạnh phúc; chúng hiếm khi tranh cải. Nhưng những con khỉ bị tách khỏi khỉ mẹ thì luôn luôn trong tình trạng buồn bã và thường tranh cải nhau. Con người chúng ta cũng giống như vậy. Những người thiếu tình cảm từ gia đình họ khi thơ ấu có những đời sống thật  khó khăn. Sự học vấn của họ đau khổ do bởi quá nhiều bất hạnh. Sự lớn mạnh thân thể cũng đau khổ - điều này là rất rõ ràng. Nhưng điều tệ hại nhất , cả cuộc đời còn lại của họ, họ thấy khó khăn biểu lộ tình cảm cho người khác. Những người này thường trở thành những con người sân hận và chán chường. Sự chán chường biến thành sân hận, và sự sân hận biến thành bạo động.

 

Thậm chí rồi có cả  một số ít biến thành những kẻ gây rối. Những con người này có thể bị cô lập, vì thế họ không thể ảnh hưởng sự thân hữu hạnh phúc, tin tưởng, và chân thành trong toàn xã hội còn lại. Nhằm để tạo nên một gia đình hạnh phúc và thương cảm, trước tiên nhất, mối thương cảm phải bắt đầu từ cá nhân. Cho nên khi chúng ta nói về một thế giới hạnh phúc hơn và hòa bình hơn, thì tôi tin khởi đầu trước tiên phải đến từ cá nhân. Dĩ nhiên, nhiều cá nhân biết điều đó. Do thế, mỗi chúng ta có một tiềm năng nào đó để tạo nên một thế giới hạnh phúc.

 

Tương lai và hạnh phúc của một cá nhân tùy thuộc vào thế giới còn lại. Bây giờ thí dụ, lấy trường hợp của chính tôi – tôi là một cá nhân con người, chỉ là một người trong sáu tỉ người. Quá nhiều thứ về tương lai của tôi lệ thuộc vào cát tường cua sáu tỉ con người. Nếu tất cả những con người còn lại đang đối diện với những khó khăn, thế thì sẽ có thêm bạo động, và tôi phải có sự sợ hãi liên tục. Và với sự hòa bình của chính tâm tư tôi ở trong hiểm họa, và thật khó khăn cho tôi có một đời sống hạnh phúc

 

Rồi thì, đặc biệt trong thế giới ngày nay, có một thực tế mới. Nền kinh tế toàn cầu lệ thuộc hổ tương nhau một cách sâu sắc. Có vấn đề môi trường. Đây là những vấn đề phổ quát, những vấn đề toàn cầu. Cho nên, trong thực tế mới này, khái niệm về một cá nhân hay chỉ nghĩ trong dạng thức của “tôi” và “thế hệ tôi” là không còn thực tế nữa. Theo thực tế  mới, những chữ “chúng tôi” và “họ” là không liên hệ. Toàn bộ thế giới còn lại thật sự là một bộ phận của ta. Do vậy, theo thực tế đó, chúng ta phải có một cảm nhận quan tâm – một cảm nhận chân thành cho toàn bộ thế giới, cho toàn bộ nhân loại.

 

Rồi thì, có chủ đề của thế giới hòa bình. Thế giới hòa bình một cách tự nhiên đến qua hòa bình nội tại. Nếu, bên trong, là đầy thù oán, nghi ngờ, không tin tưởng, thì không thể tạo nên hòa bình. Cho nên hòa bình phải đến từ bên trong. 

 

Thù hận, nghi ngờ, không tin – đây là những trạng thái bạo động của tâm thức. Nhằm để tạo ra hòa bình nội tại, chúng ta phải giải trừ quân bị. Qua sự giải trừ quân bị bên trong, thì có khả năng thật sự để đạt được sự giải trừ quân bị bên ngoài. Điều này là hợp lý. Nhân và quả, nhân và quả. Mọi hành vi tích cựctiêu cực cua con người liên hệ với cảm xúc và động cơ của chúng ta. Vì vậy  cho nên, nhằm để đạt được một nền hòa bình thế giới chân thành trường cửu, trước tiên, chúng ta phải chăm sóc niềm hòa bình bên trong cá nhân chúng ta. Tôi nghĩ điều đó là quan trọng. Bây giờ, những nhân tố quan trọng nhất là một cảm nhận quan tâmtrách nhiệm, và một cảm giác cộng đồng. Những điều này, tôi nghĩ, là các nhân tố then chốt.

 

Cho nên bây giờ đi đến câu hỏi về thương cảm hay tình cảm. Tình cảm không phải là điều gì mới đối với chúng ta. Cách chúng ta được sanh ra, lập tức sau khi được sanh ra, chúng ta tiếp nhận tối đa tình cảm từ các bà mẹ của chúng ta, và với điều đó, chúng ta tồn tại. Do thế, thân thể này và cuộc sống này được khởi đầu trong một không khí của tình cảm hay thương cảm. Đó là cung cách. Và, theo những nhà y học, sau khi sanh ra, trong vài tuần tới chi có sự xúc chạm của bà mẹ là cần thiết cho sự phát triển thích đáng của não bộ đứa bé. Vì vậy, đó là cung cách vốn không phải đến từ tôn giáo mà là thực tế.

 

Một lần ở Ba Lan, tôi đã viếng thăm một nhà trẻ. Những đứa trẻ đó, người tổ chức nói với tôi, là “những đứa trẻ không ai mong muốn”. Mặc dù có người cho chúng ăn uống và mặc áo quần, dĩ nhiên, và dạy dỗ chúng một ít và nơi cư trú ở đó, nhưng tôi không nghĩ tâm hồn những đứa trẻ đó thật sự hạnh phúc, vì các bà mẹ đã từ bỏ chúng. Thật là tai hại đối với trẻ con. Vì thế cho nên, tình cảm, tôi nghĩ, là một sản phẩm vật lý, một sản phẩm sinh học. Tuy nhiên, nếu chúng ta phân tích xa hơn, tình cảm hay thương cảm vốn chính yếu đến từ một nhân tố sinh học là thiên kiến hay giới hạn. Loại thương cảm định kiến không thể mở rộng đến một người xa lạ, vì hành động của người đó không tổn hại cũng không lợi lạc cho ta – nó là trung tính. Do vậy, một thái độ tình cảm là khó khăn. Rồi thì, một cách đặc biệt với kẻ thù ta, vì thái độ của người đó là tổn hại cho ta, cho nên không có căn bản cho thương cảm. Nhưng bây giờ, qua lý dochúng ta là những tạo vật xã hội – một cách đặc biệt trong thực tế ngày nay, nơi mà mọi thứ là liên hệ hổ tương, từ quan điểm y học cũng thế - nhiệt tình thương cảm hơn là tốt cho sức khỏe.

 

Rồi thì, có sự phát triển thương cảm. Sân hậntai hại cho sức khỏe của chính ta, rất tai  hại. Cũng tai hại cho tình thân hữu với bạn bè của ta. Trong những mối quan hệ quốc gia, trong mọi lãnh vực, sân hậnthù oántai hại. Vì vậy, chúng ta phải cố gắng một cách thận trọng để giảm thiểu tối đa những cảm xúc tiêu cực, và cố gắng một cách thận trọng để tăng cường các cảm xúc tích cực. Rồi thì, thương cảm hay tình cảm có thể tiến xa hơn từ hai phía.

 

Bây giờ ở đây, thật không hợp lý để nói rằng chúng ta nên mở rộng lòng thương cảm đối với kẻ thù ta bởi vì kẻ thù đang làm tổn hại ta. Cho nên, chúng ta phải tiếp cận nó trong một cung cách khác biệt. Điều đó có nghĩa là, kẻ thù đang làm tổn hại ta một cách trực tiếp, bên dưới người ấy cũng là một bộ phận của con người. Vì thế, tương lai của chúng ta thế nào đó cũng liên hệ với người đó. Tối thiểu, nếu do bởi thái độ của người đó, ta để tự ta nổi giận với người đó, nó tai hại cho sức khỏe của chính ta. Thế nên, tốt hơn là giữ một thái độ tích cực đối với người đó. Cũng vậy, về lâu về dài, nếu ta tiếp tục giữ tình cảm, kẻ thù hôm nay có thể một ngày nào đó trở thành người bạn tốt của ta. Còn nếu chúng ta tiếp tục giữ thái độ tiêu cực của ta, thì điều đó đóng lại cánh cửa khả dĩ trở thành bằng hữu. Sử dụng những loại lý trí này, thì chúng tathể không để ý đến thái độ của kẻ thù ta.

 

Bây giờ, thí dụ lấy trường hợp của tôi. Tôi có một lượng thương cảm – từ bi nào đó. Hạt giống của điều này không phải đến từ thầy tôi hay giáo lý nhà Phật, nhưng từ bà mẹ tôi. Mẹ tôi rất tử tế. Bà là một nông dân mù chữ - một bà mẹ làng quê – nhưng là một người có trái tim rất, rất ấm áp. Mẹ tôi cũng rất thương cảm. Ở độ tuổi rất trẻ - một hay hai tuổi – khi với những đứa con khác, mẹ tôi luôn luôn bồng tôi. Cho nên, đôi khi, tôi thường bắt nạt mẹ tôi. Tôi nắm tai mẹ tôi. Nếu tôi muốn đi hướng này, tôi sẽ làm như thế. (Diễn tả kéo tai) Nếu mẹ tôi đi một hướng mà tôi không muốn, thì tôi sẽ khóc, cậu bé đó, vốn hung hăng hơn mẹ tôi. Rất xấu. Thế nên mẹ tôi thật là tử tế. Tôi luôn luôn cảm thấy rằng hạt giống thương cảm hôm nay có gốc rễ từ mẹ tôi. Mọi người đều có mẹ. Vì thế, cho nên, lòng thương cảm là điều gì đó quan trọng và mọi người có tiềm năng của điều đó từ lúc sanh ra. Vấn đề duy nhấtchúng ta có chú ý hơn hay không và có thực hiện nổ lực đó hay không. Về phương diện khác, mọi người đều có tiềm năng. Một khía cạnh khác của lòng thương cảm là một thái độ thương cảm hơn có nghĩa rằng, sâu bên trong, có một sự tự tin. Do vậy, điều đó có nghĩa rằng, sâu bên trong, chúng tasức mạnh.

 

Với nhiều sân hậnthù oán, thì sẽ đi đến có một chút của sự không chắc chắn. Lòng thương cảm – từ binghĩa không chỉ nghĩ về tự chính mình mà thôi mà là chăm sóc người khác, quan tâm đến người khác. Điều đó có nghĩa là chúng ta có sự chắc chắn, sức mạnh. Một thái độ vị kỷ có nghĩa là không nghĩ về người khác mà chỉ nghĩ về những thứ của tự thân mà thôi – điều đó mang đến sự lo âu. Vì thế cho nên, lòng thương cảm – từ bi mang đến sức mạnh nội tại. Sức mạnh  nội tại mang đến một tâm tĩnh lặng. Tâm tĩnh lặng là một nhân tố rất quan trọng cho việc thể hiện các chức năng của não bộ. Sợ hãi là rất tệ hại. Sân hận cũng thế. Khi đời sống của chúng ta là rất phức tạp, thì chúng ta cần những sự phân tích một cách rõ ràng. Không hiểu biết về thực tại, không có sự hổ trợ của phân tích thì chúng ta không thể thấy thực tại. Rồi thì tất cả mọi hành vi của chúng ta đều trở thành không thực tế.

 

Thí dụ, nếu vài con muỗi đến, thì không cần phải phân tích nhiều. Nếu quý vị cảm thấy đói bụng, thế thì không cần phải phân tích – chỉ nghĩ về thức ăn. Cho nên khi ta đang đói bụng, chúng ta không cần phải nhờ đến những sự phân tích phức tạp, thí dụ, tự hỏi sự đói của ta sẽ được hài lòng với muỗng đầu đầy thức ăn hay muỗng thứ hai hay thứ ba, và v.v… Thức ăn ấy được làm từ những phân tử nào, chuyện gì xảy ra trong bao tử - không, quý vị không cần những thứ này, chỉ ăn mà thôi. Nhưng khác đi, quý vị thấy, đối với những hành động phức tạp hơn, chúng ta cần một sự thấu hiểu rõ ràng, một sự tỉnh thức rõ ràng về thực tế mục tiêu của chúng ta. Vậy nên, nhằm để biết biết thực tại, chúng ta cần khảo sát qua những phương hướng hay phương diện đa dạng. Chỉ một chiều kích thì không đủ.

 

Một trong những người bạn khoa học gia của tôi một lần nọ đã nói với tôi rằng khi ta phát triển sân hận, thì đối tượng sân hận của ta xuất hiện một cách tiêu cực. Vì vậy khoảng chín mươi phần trăm tiêu cực ấy thật sự là sự phóng chiếu tinh thần hay vọng tưởng. Điều này không đến từ kinh điển tôn giáo mà đến từ những nhà khoa học. Kinh điển Phật giáo cũng đã đề cập giống như vậy. Khi tâm ta bị khích động, thì ta không thể thấy thực tại, vì sự khích động chỉ đến từ một khía cạnh của đối tượng. Cũng có những khía cạnh khác nữa.

 

Bây giờ, thí dụ, chúng tôi đánh mất quê hương của chúng tôi hơn năm mươi năm qua. Nếu tôi nhìn vào khía cạnh đó, sự đau buồn của tôi gia tăng. Nhưng nếu tôi có thể nhìn cỏa cùng sự kiện từ một khía cạnh khác: vì chúng tôi đánh mất quê hương, cho nên chúng tôi có được cơ hội mới của việc gặp gỡ những người khác nhau. Và đặc biệt là tôi – tôi thấy những cuộc gặp gỡ với những nhà khoa học là rất hữu ích. Việc gặp gỡ những người từ những truyền thống tín ngưỡng khác nhau cũng rất, rất lợi lạc để thấu hiểu những giá trị của các truyền thống tôn giáo khác. Nếu tôi vẫn ở Lhasa – trong điện Potala, mà người ta đôi khi gọi là Chiếc Lồng Vàng – thế thì tâm thức tôi sẽ không như là hôm nay, tôi nghĩ thế. Dĩ nhiên, ngay cả hôm nay, tôi đang học điều gì đó mới mẻ qua sự tiếp xúc cá nhân, trong căn bản ngày qua ngày.

 

Và nhiều người Tây Tạngtối thiểu 150,000 người Tây Tạng – có được cơ hội mới này với tôi, về việc học hỏi những điều mới mẻ và kết giao thêm bạn bè. Và điều đó vô cùng lợi lạc, để gia tăng tỉnh thức về nền văn hóa Tây Tạng. Thế nên sự kiện tiêu cực này đã mang đến nhiều thứ tích cực. Do vậy, hãy nhìn từ nhiều khía cạnh khác nhau. Không cần phải buồn lo nhiều. Ah, cũng có những thứ tích cực ở đấy. Kẻ thù của ta – nếu ta nhìn vào một hành động đặc thù nào đó, thì cảm thấy chán nản và giận dữ. Nhưng nếu ta nhìn từ một khía cạnh khác, người ấy cũng không tệ hại như vậy. Nếu ta làm một sự so sánh, một người khác thậm chí tệ hại hơn. Thế thì sự kiện này có thể dễ chấp nhận hơn. Hãy nhìn một sự kiện từ những khía cạnh khác nhau và những chiều kích khác nhau. Một chiều kích, bốn chiều kích, sáu chiều kích. Sau đó ta có được một cục diện rõ ràng hơn về thực tại. Do thế, để tiến hành những sự khảo sát như vậy, một tâm thức bình thường và định tĩnh là rất quan trọng. Một tâm khích động không thể tiến hành loại chức năng ấy đúng đắn. Vì vậy, cũng từ quan điểm ấy, tâm từ bi là điều gì đó quan trọng và đáng giá. Tôi nghĩ rằng đó là về năng lực của từ bi. Quý vị nghĩ gì, có phải là hợp lý không? (Cười)

 

Vì thế đây là điều mà tôi gọi là những giá trị thế tục. Không liên hệ gì với tôn giáo. Và cung cách tiếp cận cũng không dính dáng gì với tôn giáo. Nhưng đơn giản, hãy sử dụng cảm nhận thông thường, kinh nghiệm thông thường của chúng ta và những khám phá của khoa học. Dĩ nhiên, những người tin tưởng tôn giáo hữu thần sử dụng khái niệm về Thượng đế để thúc đẩy những thứ này. Và thái độ của tôn giáo vô thần, luật nhân quả, hãy sử dụng khái niệm ấy và thúc đẩy từ bi. Tất cả những truyền thống tôn giáo quan trọng cùng mang một thông điệp. Thông điệp của từ ái, bi mẫn, tha thứ mặc dù triết lý khác nhau. Đó là chí nguyện thứ hai của tôi – việc thúc đẩy hòa hiệp tôn giáo.

 

Trên tất cả những giá trị cảm xúc nhân bản. Như tôi đề cập trước đây, qua một sự tiếp cận thế tục. Cho nên nếu quý vị có một sự quan tâm nào đó vậy thì hãy thẩm tra xa hơn, quán chiếu xa hơn, và rồi thì hãy cố gắng để thực hiện. Sau đó quý vị sẽ có một số kinh nghiệm. Nếu quý vị cảm thấy điều gì đó tốt đẹp, điều gì đó hữu dụng, thế thì đưa nó xa hơn, hãy thực hành. Nếu quý vị cảm thấy không có giá trị, lợi lạc gì nhiều, thế thì hãy quên đi, không có vấn đề gì.

 

Cảm ơn, đó là phát biểu của tôi, bây giờ là câu hỏi.

 

HỎI VÀ ĐÁP

 

 HỎIKhi tâm thức tiêu cực của chúng ta mạnh quá vì thế chúng ta không thể áp dụng những sự đối trị, chúng ta phải làm gì?

 

ĐÁP: Tôi nghĩ đối với những cảm xúc tiêu cực chẳng hạn như sân hận hay sợ hãi, thì có hai loại. Một sợ hãi nào đó là hợp lý và hữu ích và một sợ hãi nào đó là không cần thiết. Vì vậy, một cách căn bản, tôi nghĩ thù oán sinh ra một cảm giác rất tiêu cực. Trái lại, sân hận cũng có thể tích cựctiêu cực, cũng như thái độ vị kỷ.

 

Như tôi đề cập trước đây, trong sự sợ hãi tiêu cựcsân hận liên tục hay quá nhiều dính mắc, trong thời khắc ấy việc thực hành đối trị là khó khăn. Thì phải có một loại trạng thái trung tính. Tôi  nghĩ phương pháp dễ dàng nhất là chỉ quên lãng đối tượng mà chúng ta cảm thấy tiêu cực, quên nó đi, chỉ quan tâm đến hơi thở, thở vào, thở ra, chỉ thiền tập về hơi thở. Hai mươi lần, ba mươi, bốn mươi, một trăm lần. Rồi thì sau đó, tâm thức chúng ta hơi tĩnh lặng hơn. Sau đó có thể quán chiếu dễ dàng hơn, để áp dụng những phương pháp đối trị. Ngay thời điểm đó, đừng nghĩ cả hai bên, hãy thiền tập về hơi thở. Sau đó một lúc tâm tư ta sẽ tĩnh lặng hơn, rồi thì hãy nghĩ về những phía tích cực. Hãy cố gắng điều đó. Đó là một phương pháp.

 

Rồi thì một cách căn bản giống như hệ thống miễn nhiễm của chúng ta, thái độ căn bản của chúng ta là quan trọng. Nếu thái độ căn bản của chúng ta từ bi hơn và rồi thì những sự khích động nào đó đến và đi, và không có tác động nhiều. Thế nên, nếu thái độ căn bản của chúng tanghèo nàn, thì không dễ xử trí những thứ này. Nhằm để phát triển thái độ tích cực hơn, đầu tiên chúng ta cần tri thức. Rồi thì thứ đến là, hãy nổ lực liên tục. Kế đến thứ ba là nhân tố thời gian. Hãy nổ lực liên tục với tri thức trọn vẹn hơn. Hàng tuần hay hàng tháng có thể cho một kết quả tích cực. Hàng năm có thể cần đến. Rồi thì thái độ tinh thần chính yếu của ta có thể được chuyển hóa. Cho nên chúng ta cần nhẫn nại. Và một số hành giả của chúng ta, một số người muốn thay đổi một cách nhanh chóng. Điều đó là không thực tế với sự mong đợi của ta. Không thực tế. Cần thời gian. Việc định hình tâm thức ta cần thời gian. Không dễ dàng. Câu hỏi tiếp.

 

HỎICội nguồn sức mạnhchịu đựng của ngài là gì khi đối diện với sự xúc phạm?

 

ĐÁP: Ngủ ngon! Ăn ngon! (Cười) Rồi thì, dĩ nhiên, những gì tôi gọi là thiền quán (phân tích). Ah, có một số vấn đề rắc rối. Như Shantideva nói, tôi lập lại hàng ngày câu: “Khi đối diện với thảm kịch, hãy suy nghĩ. Rồi thì khi có cách để vượt thắng thảm kịch ấy, thế thì không cần phải lo lắng, hãy thực hiện nổ lực để hành động về việc đó. Nếu không có cách để chiến thắng thảm kịch, thế thì lo lắng không ích gì. Hãy chấp nhận.” Như một Phật tử, hãy đổ thừa nghiệp. Hãy chấp nhận. Nếu bạn tin tưởng Thượng đế, với một mức độ nào đó, với sự tôn kính, hãy đổ thừa Thượng đế.

 

HỎIPhương pháp nào hữu ích nhất của việc có được đạo đức, để động viên mọi người tất cả mọi tầng lớp, một cách cá nhân hay trong từng nhóm, để tha thứ những lỗi lầm trước đây, và không có ý xấu đối với người khác?

 

ĐÁP: Tôi nghĩ tha thứ có lẽ liên hệ với việc chấp nhận thực tế. Điều gì đó xảy ra. Điều gì xấu xảy ra. Hãy chấp nhận nó. Rồi thì nếu người khác làm gì đó, hãy tha thứ. Ôm ấp cảm giác xấu thì không lợi ích gì. Tha thứ không có nghĩa là quên lãng. Hay tha thứ không có nghĩa là chấp nhận việc làm sai trái của người khác. Tôi nghĩ tinh yếu là không có những cảm giác tiêu cực chẳng hạn như sân hận sinh khởi đối với người làm sai. Tha thứ không có nghĩa là ta chấp nhận việc làm sai của những người khác. Bây giờ khi ta quan tâm đến việc làm sai, trong một số trường hợp chúng ta cần biện pháp đối phó nhằm để chấm dứt việc làm đó. Nhưng biện pháp đối phó nên được tiến hành với một cảm giác quan tâm cho người làm sai. Nếu ta để người làm sai liên tục làm sai, họ sẽ bị tổn hại. Cho nên vì một cảm nhận quan tâm, vì lòng từ bi, hãy ngừng họ lại. Hãy cố gắng để dừng lại. Hãy sử dụng những biện pháp đối phó nào đó. Điều đó, tôi nghĩ, thật sự không để sân hận phát ra, vì một cảm nhận quan tâm lòng từ bi. Đó là cảm nhận đúng đắn của tha thứ. Quý vị thấy, đôi khi người ta có ấn tượng rằng sự thực hành từ bi liên hệ với một loại ngu ngơ nào đó, không thể phân biệt giữa đúng và sai. Hay dững dưng. Không phải như vậy.

 

HỎIThật là kinh ngạc khi thấy người Tây Tạng vẫn còn đủ sự đồng nhất để nổi dậy chống nhà cầm quyền Trung Cộng như họ làm đầu năm nay. Ngài có thể nói với chúng tôi những gì ngài biết về vị thế của người Tây TạngTây Tạng trong dạng thức của bản sắc dân tộc, và sức sống của sự tồn tại Phật giáo, sức mạnh của Phật giáo, trong họ?

 

ĐÁP: Tôi  nghĩ bản sắc của mỗi cộng đồng nhân loại là rất liên hệ với văn hóadi sản văn hóa của nó. Một giáo sư đến từ Hoa Lục và rất trung thực và không thành kiến một lần đã diễn tả, “nền văn hóa Tây Tạng mạnh hơn nền văn hóa Trung Hoa.” Ông đã nhận xét như thế.

 

Thí dụ, Trung Hoa gần đây đã rất cởi mở với thế giới bên ngoài, và bây giờ, rất nhiều người trẻ Trung Hoa đang đổ xô bắt chước nền văn hóa phương Tây. Kể cả nền văn hóa ở đây. (Chỉ vào đầu ngài) Quý vị cũng có thể thấy điều này trong những người Nhật Bản. Tôi nghĩ trong những người Ấn Độ, rất ít người nhuộm tóc của họ. Dĩ nhiên, một số diễn viên cần nhuộm tóc cho phim ảnh mà họ đang quay; nhưng trong những trường hợp khác thì rất ít người nhuộm tóc ở Ấn Độ.

 

Dĩ nhiên, tôi nghĩ một cách phổ quát, thì tôi không phải chuyên môn trong những thứ này – mà chúng ta cần nghiên cứu hơn nữa. Vì Ấn Độ là một phần thuộc địa của đế quốc Anh, nền giáo dục Anh quốc của người Ấn Độ là rất tốt, nhưng họ vẫn duy trì nền văn hóa của họ. Trong những người Tây Tạng, tôi đã thấy một ít người nhuộm tóc của họ trong những màu sắc khác nhau. Nhưng người Tây Tạng, nói chung, cũng có một nền văn hóa hữu dụng truyền thống lâu dài. Tôi nghĩ điều đó đã cho họ một loại sức mạnh  nội tại nào đó. Phật giáo cũng hổ trợ một cách nào đó. Tôi thường phát biểu khát vọng rằng những người nào đó nên tiến hành việc nghiên cứu để quyết định tình trạng tinh thần của những người tị nạn – những người tị nạn từ Tây Tạng, từ Shinjang (Tân Cương) gần Bangladesh, và cũng từ những quốc gia Phật giáo khác như Campuchia và Việt Nam. Những khác biệt gì trong các trình độ tinh thần của họ? Tôi đã gặp một số người tị nạn từ  Shinjang, những người gần sáu mươi. Thái độ của họ và thái độ của người Tây Tạng đối với người Trung Hoa hơi khác nhau.

 

Tôi nghĩ điều này phải là do bởi một sự khác biệt trong lòng từ bi. Những người Tây Tạng chúng tôi cầu nguyệncầu nguyện cho “tất cả”, có nghĩa là tất cả chúng sanh. Có  nghĩa là kể cả những anh chị em Trung Hoa. Qua sự tuyên truyền gần đây của chính quyền, nhiều người Trung Hoa có cảm giác rằng những người Tây Tạng chúng tôi chống người Hoa. Chắc chắn là không. Những người Tây Tạng chúng tôi tôn trọng dân tộc Trung Hoa rất nhiều – như một dân tộc văn hóa, làm việc cần mẫn, và thực tiển. Bất cứ nơi nào người Trung Hoa sống, họ cuối cùng tạo nên một phố Tàu (Chinatown), với ngôn ngữ Trung Hoa, chữ viết Trung Hoa, và chắc chắn là với thực phẩm Trung Hoa, thực phẩm tuyệt vời! Cho nên quý vị thấy, họ là những người làm việc cần mẫnvăn hóa. Nhưng rồi thì, do bởi sự tuyên truyền của chính quyền, họ đã quay sang chống lại Tây Tạng rất nhiều. Và điều đó là rất xấu, rất xấu. Cho nên tôi muốn làm rõ điều này – chúng tôi luôn luôn tôn trọng dân tộc Trung Hoa, nhưng chúng tôi không tôn trọng chính quyền Trung Cộng và chế độ chuyên chế. Mọi người đều biết bản chất của loài người là yêu tự do. Chủ nghĩa chuyên chế là một chướng ngại cho tự do. Cho nên xin vui lòng đừng hiểu sai sự ngoan cường chống lại chế độ chuyên chế của chúng tôi. Nó không nên bị xem là hành động chống lại người Hoa, xin quý vị. 

 

HỎINhững tôn giáo khác nói về sự bắt đầu và kết thúc của thế giới. Đức Phật nói gì về điều này?

 

ĐÁP: Không phải chỉ Đức Phật mà Mahavira, vị thầy của đạo Jain (Kỳ Na giáo), như tôi biết, cả hai tin tưởng trong luật nhân quả. Cho nên luật nhân quả có nghĩa là một sự kiện nào đó xảy ra qua những nguyên nhân của chính nó. Nguyên nhân đó cũng qua những nguyên nhân của chính nó. Vì thế từ cung cách ấy, nguyên nhân của một sự kiện khác thật sự là một sự kiện, của chính nguyên nhân của nó.

 

Bây giờ thí dụ, Big Bang, vụ nổ lớn. Thế nào đi nữa nó là sự bắt đầu của một vũ trụ mới. Nhưng Big Bang phải có những nguyên nhânđiều kiện của chính nó. Nhưng rõ ràng năng lượng kinh khủng, năng lượng dày đặc vốn tạo nên Big Bang. Vậy thì năng lượng ấy đến từ đâu, nguyên nhânđiều kiện của nó là gì, để đi đến nơi chốn bắt đầu.

 

Rồi thì một khía cạnh khác là trình độ vật lý. Một khía cạnh khác là một tự ngã. Tự ngã. Một tự ngã độc lập. Tự ngã thiết kế phức thể thân và tâm. Như tôi đã đề cập trước đây, những phân tử căn bản của thân thể này đến từ cha mẹ đến cha mẹ đến cha mẹ đến cha mẹ. Và vì thế nó đi đến, sự bắt đầu của thế giới, trước đó, không gian trống rỗng, có những hạt; thậm chí là những hạt vi tếnguyên nhân của sự phát triển sau này. Do thế, thân-tâm ngày nay là sự tương tục căn bản của những hạt thân-tâm liên hệ với thời điểm trước. Vì vậy nó là không có sự bắt đầu, vô thỉ. Tương tự thế, tâm thức là một hiện tượng khác. Nó không có tướng mạo, màu sắc, hình thức. Do vậy nó thay đổi luôn luôn. Điều đó có nghĩa là phải có những nguyên nhân.

 

Người Phật tử nói không có sự bắt đầu của tự ngã, vì không có bắt đầu của tâm thức. Nếu quý vị chấp nhận sự bắt đầu của tâm thức, thế thì tâm thức nguyên thỉ phải đến từ những loại hiện tượng khác. Điều đó là không hợp lý. Điều đó là căn bản những đời sống trước và sự tái sanh. Nếu quý vị cảm thấy không thoải mái, thế thì quên nó đi. Đừng nghĩ. Bây giờ kết thúc trong Phật giáo, trong truyền thống Phật giáo, có hai loại. Một nói, sau giai tầng Phật, một giai tầng cao hơn, cơ thể của một người biến mất. Nhưng hầu hết mọi truyền thống Phật giáo phủ nhận điều đó. Không có lý do gì để chấm dứt tâm thức của chúng ta. Do vậy cho nên, quan điểm của Phật giáo, tâm thức là không có bắt đầu và không có kết thúc, vô thỉ và vô chung.

 

HỎIMục tiêu của sự sống của tôi là gì và đặc biệt hơn, mục tiêu sự sống của tôi được phục vụ tốt nhất trong dạng thức của một nghề  nghiệp tương lai và năng lực của tôi liên  hệ với sinh kế của tôi với sự phát triển tâm linh của tôi như thế nào? Thí dụ, ngay bây giờ, tôi làm trong một công ty Hoa Kỳ, trong thương nghiệp, và tạo nên một cuộc sống tuyệt vời nhưng cảm thấy không đầy đủ và vướng mắc thế nào đấy. Tôi biết đây là sáng tạo của riêng tôi, có phải trở thành nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe hoặc y tá cho người sắp chết sẽ phù hợp hơn với tôi trong cuộc sống này  hay không? Điều này có nghĩa là trở lại trường học và kiếm được ít tiền hơn. Nói tóm lại, bước tiếp theo của tôi là gì trong việc nhận ra, và tiến tới, kiếp sống tới của tôi?

 

ĐÁP: Tôi cảm kích câu hỏi chân thành của bạn. Rất tốt. Tôi nghĩ một cách căn bản như tôi đề cập trước đây, có những giá trị bên ngoài, giá trị vật chất, và những giá trị tinh thần hay giá trị bên trong. Tôi nghĩ chúng tôi nên tiến tới những giá trị nội tại. Cho nên tôi hoàn toàn đồng ý. Việc phụng sự, những giáo viên, y tá, đây là điều gì đó giúp đở, phục vụ một cách trực tiếp. Những thứ này thông thường tôi gọi là những hành động từ bi. Tuyệt vời. Nhưng nếu mọi người liên hệ trong việc điều dưỡng hay giảng dạy, thế thì tiền bạc sẽ đến từ đâu?

 

Chúng ta nên có những thương gia. Chúng ta nên có những người cộng tác trong các công ty. Và tôi nghĩ những người kinh nghiệm, thông tuệ là rất cần thiết trong lãnh vực này. Bằng khác đi, thế giới công ty sẽ sụp đổ. Cho nên xã hội con người cần những con người đa dạng và chuyên nghiệp. Nhưng ở đây, mọi hành động của con người, cho dù tiêu cực hay tích cực, cuối cùng tùy thuộc vào động cơ.

 

Làm ra tiền, không phải từ động cơ vị kỷ hay sự không hài lòng về lối sống xa hoa của ta, nhưng mà cũng nghĩ về thế giới và những người nghèo. Có rất nhiều người nghèo đói ở Phi châu. Nhiều người đang đối diện với nạn đói. Cùng là những con người. Cùng là nhân loại. Họ cũng có quyền để tồn tại. Không chỉ tồn tạihạnh phúc. Chúng ta cần tiền. Thế thì câu hỏi là chúng ta sử dụng tiền như thế nào.

 

Chỉ có một lối sống cá nhân xa hoa thì tôi nghĩ là sai đạo đức. Nhưng chúng ta cũng cần tiền. Và để tiêu dùng một cách thông tuệ. Khoảng cách này giữa giàu và nghèo là rất, rất tệ. Ở đây, bây giờ những người tỉ phú đang gia tăng. Người nghèo vẫn nghèo, đôi khi lại nghèo hơn. Điều đó là đáng xấu hổ, là tệ hại. Do thế, chúng ta cần tiền để giảm thiểu khoảng cách này, và cung cấp dụng cụ và chuyên môn qua giáo dục. Rồi thì những vùng nghèo hơn, thay vì chán chường và giận dữ, hoạt động cần mẫn cho giáo dục, cho huấn nghệ, căn cứ trên sự tự tin. Chúng ta là những con người giống nhau, chăm sóc nhau, chúng ta phải làm việc cần mẫn, và chúng ta phải rèn luyện. Cho nên tôi nghĩ chúng ta cần tiền. Tôi nghĩ chúng ta làm việc. Tiến hành với động cơ chân thành và một viễn cảnh toàn cầu. Tôi nghĩ điều đó là có thể. Đó là việc làm từ bi yêu thương. Việc làm tích cực. Rất tốt.

 

HỎITôi ba mươi chín tuổi, tôi là một góa phụ. Chồng tôi chết sau một thời gian chống chỏi với ma túy và rượu. Ông quá liều vào lúc chỉ ba mươi sáu tuổi. Tôi cần tìm sự an tĩnh tâm hồn của tôi. Tôi vật vả với điều này mỗi ngày. Ngài có thể đề nghị những cung cách nào đó để tôi có thể tập trung vào chính tôi để giúp tôi tìm ra một lối thoát vượt qua nổi đau đớnthống khổ này không?  Tôi yêu cuộc sống và tôi thích cảm thấy hạnh phúc. Tôi nhớ những cảm xúc này. Trái tim tôi nặng nề, và tâm hồn tôi tổn thương. Ngài có thể ban cho tôi bất cứ lời khuyên nào không? Cảm ơn.

 

ĐÁP: Rất buồn. Câu chuyện buồn. Tôi không biết. Như tôi đã đề cập trong sự thực tập của chính tôi. Tôi cũng đã trải nghiệm những thảm kịch. Điều đó đã xảy ra. Bây giờ tôi nghĩ một điều, nếu bà lo lắng, lo lắng, lo lắng, bà vẫn như thế. Nếu người chồng quá cố của bà thật sự yêu bà, và, tôi nghĩ, cha mẹ bà thật sự thương bà, do vậy trong một cung cách nào đó họ biết về tình trạng tinh thần của bà hôm nay.

 

Nếu tâm tư bà, trạng thái tinh thần của bà thay vì ở trạng thái này, thì hãy cố gắng để tĩnh lặng và tiến hành mọi công việc một cách bình thường, tôi nghĩ cha mẹ bà cũng như người chồng quá cố của bà, phải cảm thấy hạnh phúc. Nếu bà vẫn với loại tình trạng rất buồn thế này, trong cách nào đó, thì biết rằng cha mẹ bà và bạn bè của bà cũng sẽ cảm thấy rất buồn. Do vì thảm kịch đã xảy ra. Bây giờ tôi nghĩ thảm kịch này nên chuyển hóa sự tự tin của bà và mang đến năng lượng mạnh hơn, đời sống của bà nên là điều gì đó hữu ích cho xã hội, cho cộng đồng. Và qua cách ấy, bà sẽ đạt được sự tự tin hơn và vui sướng hơn. Nếu bà vẫn buồn, buồn, buồn, thế thì không có cách nào để đạt được sự tự tin.

 

Do vậy hãy làm việc cần mẫn. Và thảm kịch này, nỗi buồn thảm này, nên được chuyển hóa thành năng lượng mới. Hãy làm việc chăm chỉ. Và trường hợp  thảm kịch của bà, trong sáu tỉ con người, những thứ như vậy phải là vô số. Không chỉ trường hợp của riêng bà. Như vậy bà cũng thấy lợi lạc, tôi nghĩ thế. Đôi khi một thảm kịch nào đó xảy ra và rồi phản ứng đầu tiên của ta là, “Ô, tôi đã có kinh nghiệm loại này tệ hại như thế nào.” Rồi nghĩ, “Ô, trong sáu tỉ người, có nhiều người khác cũng trải nghiệm như tôi vậy, một số trường hợp thậm chí tệ hại hơn.” Điều đó đôi khi cũng rất lợi lạc, để giảm thiểu cảm giác không thể chịu đựng nổi của bà. Rồi thì nếu bà tin tưởng trong Thượng đế, thế thì hãy nghĩ về Thượng đế. Nếu đây là thảm kịch, thế thì ở trình độ sâu hơn, phải có ý nghĩa nào đó. Điều đó cũng giúp đở ít nhiều. Nếu bà là một người có tín ngưỡng, thế thì hãy sử dụng cảm nhận thông thường như tôi đề cập trước đây. Nếu sự thảo luận đưa đến một loại tri thức hay quan tâm đến Thượng đế, tôn giáo vô thần, thế thì tôi nghĩ luật nhân quả. Mỗi sự kiện, mỗi kinh nghiệm xảy ra qua nguyên nhânđiều kiện của nó. Cho nên một cách chính yếu những nguyên nhân này là do chính chúng ta tạo ra. Những hậu quả nào đó xảy ra hôm nay do bởi những hành vi nào đó trước đây. Điều đó cũng hữu ích.

 

Cảm ơn.

 

*

 

Ẩn Tâm Lộ, Friday, July 19, 2019

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 652)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 770)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 684)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 662)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 727)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 675)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 914)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 709)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 760)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 897)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1382)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 908)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 935)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 865)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 756)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 709)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 719)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 594)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1243)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1126)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1093)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1058)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1168)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1106)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1190)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1120)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 994)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1031)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1106)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 1071)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
(Xem: 1180)
Sống trên đời, có ai không mang ít nhiều âu lo? Người nghèo thì lo làm thế nào để mọi người trong gia đình mình đủ ăn đủ mặc.
(Xem: 1078)
Trong những chúng đệ tử Phật, thì chúng cư sĩ tại gia chiếm số lượng đông đảo và có những ảnh hưởng nhất định đối với diện mạo của Phật giáo nói chung.
(Xem: 1153)
Hạnh phúc chính là sự bình an của thân thể và sự yên tĩnh của tâm hồn.
(Xem: 1140)
Cái vòng tròn vô hình lại quay trọn môt vòng, mùa thu lại về với đất trời Bắc Mỹ.
(Xem: 1069)
Trong Trung luận của Bồ tát Long Thọ luận giảng về tánh Không, phần nhiều là những câu phủ định.
(Xem: 1131)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1105)
Mỗi người trong cuộc sống này luôn có một thử thách để chinh phụcvượt qua, đó là gì?
(Xem: 1680)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1102)
Thế gian không có cái gì khổ cả, khổ chỉ là những ảo giác của con người.
(Xem: 1121)
Thực tập nhằm tăng cường khả năng tập trung hoặc chú ý đóng một vai trò quan trọng trong hầu hết các truyền thống tôn giáo lớn.
(Xem: 1050)
Trong phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm thứ nhất của Kinh Hoa Nghiêm, các thiên vương, các thần vương cho đến các Đại Bồ tát nói kệ tán thán Phật
(Xem: 1240)
Về pháp thiền quán vô thường tôi chia sẻ hôm nay, tôi sẽ không bàn đến đại vô thường như là cái chết, sự hủy diệt, sụp đổ hay sự chia ly.
(Xem: 1121)
Sau khi quy y Tam bảo, vì muốn tìm cầu tri thức, tôi đã nỗ lực nghiên cứu kinh điển. Kinh Phật mênh mông như biển cả,
(Xem: 1032)
Sống lâu, khỏe mạnh là một phước báu lớn. Nhưng không phải ai cũng có được phước báo này.
(Xem: 979)
Ăn chay không thực hành trong tâm lý cứng nhắc, khắc nghiệt mà ăn chay cần duy trì trong một tâm thái an lạc, nhẹ nhàng và hạnh phúc!
(Xem: 1009)
Thiểu dục: là ít muốn. Tri túc: là biết đủ. “Thiểu dục tri túc”, tức là ít ham muốn và biết đủ.
(Xem: 1024)
Biết chế ngự tâm thì sẽ giảm đi hoặc chấm dứt hẳn những tham vọng, cuồng nộ, sân hận, bẳn gắt, ganh tỵ, đố kỵ, si mê...
(Xem: 1155)
Con người khi mất đi, vẫn còn âm hồn như trong đạo Phật vẫn luôn nhắc đến thuyết luân hồi,
(Xem: 913)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rừng.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant