Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thấy Biết Đúng Như Thật

29 Tháng Tám 201915:40(Xem: 5172)
Thấy Biết Đúng Như Thật
THẤY BIẾT ĐÚNG NHƯ THẬT

Thích Thông Phương


Thấy Biết Đúng Như Thật


I. KIỂM LẠI THẤY BIẾT CỦA CHÚNG TA HIỆN TẠI LÀ THẾ NÀO?

Sống trên đời này, ai cũng đều có chỗ thấy biết, đó là một điểm không thể chối cãi. Và lâu nay chúng ta ai cũng như ai thường tự hài lòng với chỗ “thấy biết của ta”,
 nhưng chín chắn kiểm điểm lại xem, cái gọi là THẤY BIẾT CỦA TA  có thật đúng chưa? Thế mà chúng ta thường hay đi phê bình người này, chỉ trích người nọ là sao? Khi đi phê bình, chỉ trích mọi người tức trong đó ngầm nói lên điều gì? Rõ ràng ngầm nói lên chỗ thấy của ta là hay hơn hết. Ta thấy là đúng đắn, chính xác nên ta thấy được chỗ dở của người, chỗ thấy của người hẳn còn kém thua ta nên ta đi phê bình để nêu cao chỗ thấy của ta cho tất cả biết. Bấy nhiêu đó, đủ thấy cái THẤY BIẾT CỦA TA là như thế nào rồi, khỏi phải nói thêm nhiều lời!

Song, đặt câu hỏi lại: chỗ thấy biết của ta có được bao nhiêu đối trong vũ trụ này? Quả là rất còn hạn hẹp. Ngay cả những nhà bác học, chỗ thấy của họ cũng còn giới hạn, cũng còn có nhiều điều chưa biết. Vậy thì tại sao chúng ta dám tự hào về cái thấy biết của mình?

Để thấy lại chỗ này, chúng ta thử đặt thêm câu hỏi. Hiện tại chúng ta ai không có mắt chăng? Nếu không phải là người mù, thì ai ai cũng đều có mắt, vậy tại sao Phật bảo chúng ta là vô minh? Vô minh tức là mù tối, là không sáng suốt. Có mắt sao gọi là không sáng suốt? Bởi vì chúng ta có mắt mà thấy biết theo tình mê, nhìn đảo lộn sự thật, lấy cái giả làm chân, không phải ta lại chấp bướng, chấp càn là ta. Hơn nữa, thấy biết cái gì cũng luôn luôn dán nhãn hiệu “TA” vào trong đó, cho nên thấy biết cái gì cũng đều bóp méo sự thật theo cái ta: ta thấy, ta hiểu, cái thấy của ta là trên hết, là bất khả xâm phạm. Vậy không phải vô minh là gì? Có thể hài lòng được sao?

Trong kinh Niết Bàn có kể câu chuyện: Một ông Vua muốn thử chỗ nhận biết của những người mù thế nào, bèn sai đem con voi ra trước sân và cho gọi một số người mù đến trước con voi, bảo thử diễn tả con voi cho ông nghe. Đám người mù đó lăng xăng đến rờ con voi, người rờ trúng cái đuôi, bảo: con voi giống cây chổi. Người rờ trúng chân bảo: con voi giống cây cột. Người rờ trúng bụng bảo: con voi giống cái lu. Người rờ trúng cái tai bảo: con voi giống cái quạt v.v… rồi cãi nhau inh ỏi. Trong khi đó ông vua nhìn thấy toàn thể con voi rõ ràng, chỉ biết cười thôi.

Câu chuyện đơn giản mà thật ý vị! Tại sao đám người mù cãi nhau inh ỏi? Chỉ vì chỗ thấy chưa trọn vẹn. Dù mỗi người có thật sự đụng đến con voi, nhưng vì chỉ đụng đến một góc, một cạnh, không thấy thấu được toàn thể con voi mà cứ chấp chặt chỗ nhận biết của mình là đúng hơn hết, do đó thành cãi. Cãi đó là để làm gì? Để nêu cao, bảo vệ cái thấy biết của ta là đúng nhất! Không ngờ TA THẤY chỉ là một khía cạnh thôi, càng cãi càng lộ bày chỗ dở của mình ra mà không hay.

Trái lại, ông vua mắt sáng nhìn thấy trọn vẹn con voi trước mắt rõ ràng, chỉ cười thôi, đâu nhọc tranh cãi làm gì? Đó là nói người có đụng đến con voi thật sự nhưng đụng chưa trọn vẹn mà còn thấy lệch lạc như thế, huống nữa người chưa đụng đến, chỉ nghe nói rồi ức tưởng mà đi cãi, thì còn phải nói sao đây?

Quả thật, xét cho cùng tột thì cái THẤY BIẾT của chúng ta hiện tại đây rất còn giới hạn, nhưng vì cái TA che mờ thành ra tự hào thôi. Hãy xem, đồng là một cô thiếu nữ mà người thì thấy đẹp, người thì thấy xấu tùy theo ý riêng của mình. Người nhìn trên sắc tướng thấy thích liền bảo là đẹp. Người nhìn trên đức hạnh không vừa ý bảo là xấu nết.

Cũng vậy, cùng một đóa hoa, ta thấy là đẹp, người thấy là xấu. Tại sao như thế? Chỉ vì trong đầu ta chưa từng thấy đóa hoa nào đẹp hơn đóa hoa này, còn người kia thì trong đầu họ đã từng thấy nhiều đóa hoa đẹp hơn đóa hoa này gấp bội. Nhưng “hoa vẫn là hoa”, nó có nói tôi đẹp, tôi xấu bao giờ đâu? Chỉ vì mỗi người chúng ta đem cái khuôn in sẵn trong đầu của mình ra để đo nó, bóp méo, bắt nó phải đẹp, phải xấu theo cái khuôn TA ấy, thành ra không thấy trọn vẹn được đóa hoa. Vậy mà cũng tự hào! Chừng ấy đủ thấy chỗ lầm của mình rồi!

Trong kinh Lăng Nghiêm có nói đến CÁI THẤY BIỆT NGHIỆP và CÁI THẤY ĐỒNG PHẬN.

- Cái thấy biệt nghiệp, như ban đêm có người bị bệnh mắt nhìn thấy ngọn đèn có thêm cái bóng tròn năm màu hiện ra, nhưng người mắt sáng dù ở bên cạnh nhìn xem vẫn không thấy.

- Cái thấy đồng phận, như người nước này thấy những điềm bất tường như sao chổi, sao băng, hai mặt trời v.v… mà người ở nước khác không thấy.

Cũng vậy, chúng ta luôn luôn thấy biết sự vật đều có một cái bóng tròn đi theo sát bên mình. Bóng gì? Đó là “bóng của một cái tôi.”

Kìa, núi cao, sông sâu, do đâu mà cao, mà sâu? Chúng ta hãy đến hỏi xem núi, nó có nói nó cao nó thấp bao giờ chăng? Sông, nó có nói nó sâu, nó cạn gì chăng? Quả là chúng ta gán cái tôi vào trong đó, rồi bắt nó cạn, nó sâu, nó cao, nó thấp theo cái tôi này! Tôi thấy núi này cao vì trong đầu tôi chưa thấy núi nào cao hơn. Người kia thấy núi này thấp, vì trong đầu họ đã từng thấy những núi cao hơn. Thế là núi có cao, có thấp theo cái “bóng nhòa một cái tôi”. Vậy bảo là chân lý muôn đời được sao? Gân cổ lên cãi để bảo vệ cho nó được sao?

Từ một người bệnh có bóng nhòa cái tôi đó, mà thấy sự vật có mang theo cái bóng nhòa ấy, rồi người người bệnh mắt cũng đồng thấy sự vật có cái bóng nhòa theo bên, nên cùng hài lòng trong đó cho là chúng ta thấy đúng. Song những người mắt sáng không cùng chung bệnh mắt đó, như người ở nước  khác bên cạnh thì vẫn thấy bầu trời trăng sao trong sáng, không có sao chỗi, sao băng gì. Tức nhân một người bệnh mắt mà nói rộng ra nhiều người trong một nước đồng cái thấy bệnh ấy, gọi là cái thấy đồng phận. Tức là cái lầm chung với nhau.

Chính vì mỗi người đều sống có một cái bóng tròn riêng nên ai ai cũng đều sống với cảnh giới riêng, dù ngồi sát bên nhau nhưng trong đầu mỗi người vẫn đang có một cảnh giới riêng, nên cũng không tiếp xúc được nhau. Xả cái bóng TA đó đi, thì gặp nhau tất cả, còn gì tranh cãi nữa?

Ông Tô Đông Pha có bài tụng nói về LÔ SƠN CHÂN DIỆN MỤC, tức MẶT MÀY THẬT CỦA NON LÔ:

Hoành khán thành lãnh trắc thành phong,

Viễn cận cao đê giai bất đồng.

Bất thức Lô sơn chân diện mục,

Chỉ duyên thân tại thử sơn trung.

Nghĩa:

Nhìn ngang thành dãy, xéo thành non,

Cao thấp, xa gần thảy chẳng đồng.

Chẳng biết Lô sơn mày mặt thật,

Bởi tại núi này thân ở trong.

Cũng là một ngọn núi Lô, nhưng người đứng ngang thì nhìn thấy là một dãy núi, người đứng xéo nhìn lại thấy chỉ là một ngọn núi, đứng gần thì thấy cao, đứng xa thì thấy thấp v.v… Nhìn theo kiểu đó, hẳn muôn đời đâu thấy được mặt mày thật của non Lô, trái lại là nhìn theo cái BÓNG TA rồi! Đó là vì, thân đang bị kẹt trong núi này, đang đóng khung trong núi năm uẩn ta đây, hẳn không thể thấy được chân lý. Song chân lý thật sự ở đâu mà không thấy?

II. CHÂN LÝ Ở TRONG TA

Chúng ta cứ lo hướng ra bên ngoài chạy tìm chân lý, không ngờ chân lý ở ngay chính mình. Mình sai thì thấy cái gì cũng sai, theo cái tình sai lầm đó. Trái lại, mở sáng mắt tâm, phá mê lầm thì thấy cái gì cũng sáng suốt đúng như thật.

Có một bà nọ đến nghe Thiền sư Bạch Ẩn thuyết giảng rằng: “Tâm thanh tịnh thì cõi nước thanh tịnh, đức Phật trong mỗi chúng sanh: Một khi đức Phật xuất hiện thì mọi vật trên thế gian đều chiếu ánh quang minh. Nếu ai muốn nhận được điều này, phải phản quan tự kỷ, đến chỗ nhất tâm bất loạn. Vì tâm tịnh tức độ tịnh, thì làm sao để trang nghiêm tịnh độ? Vì Phật vốn sẵn trong mỗi chúng sanh thì tướng tốt và vẻ đẹp của Phật là gì?”

Nghe xong bà nghĩ: “Điều đó không khó!” Về nhà bà bắt đầu quán chiếu suốt ngày đêm, đeo đuổi mãi dù ngủ hay thức.

Một hôm, đang rửa nồi, thình lình bà tỏ ngộ.Mừng quá, bà ném cái nồi qua bên, liền đến gặp ngài Bạch Ẩn. Bà nói:

- Tôi bỗng gặp đức Phật trong thân tôi. Mọi vật rạng ngời ánh sáng. Thật kỳ diệu! Kỳ diệu!

Bà quá đỗi sung sướng. Bạch Ẩn chợt bảo:

- Bà nói như thế, nhưng còn cái hầm phân thì sao? Nó có chiếu sáng không?

bước lên, đấm vào Bạch Ẩn nói:

- Ông già này chưa ngộ.

Bạch Ẩn cười to.

(Những Nụ Cười Thiền)

Xem đấy! Bà này tỏ ngộ liền sung sướng hứng khởi, cảm thấy đức Phật ngay trong thân bà và mọi vật trước mắt đều sáng ngời ánh sáng ấy. Tuy nhiên nghe vậy, Bạch Ẩn còn gạn lại để xem bà đã có kinh nghiệm thực sự hay do một cái khuôn đúc sẵn trong đầu đã học hiểu từ trước. “Tất cả đều sáng ngời, vậy hầm phân thì sao? Nó có chiếu sáng chăng?” Nếu nghe nói hầm phân, cái “khuôn nhơ sạch” trong đầu hiện ra, bèn trầm ngâm do dự, thì biết ngay là chưa phải. Ở đây, bà đã thực sự kinh nghiệm rõ ràng, nên trả lời ngay bằng một cái đấm “Ông già này chưa ngộ!” Cho thấy lời lẽ kia không thể lừa được bà!

Như vậy, cũng cảnh này, khi mê thấy sai khác theo tình mê, khi giác thấy sáng tỏ theo ánh sáng chánh giác, nhưng núi sông vẫn là núi sông, chưa từng có mê ngộ. Chúng ta thì thường bị lầm theo bên ngoài. Chẳng hạn lâu nay chúng ta đọc truyện Kiều, thấy Nguyễn Du nói:

“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,

Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”

Thông thường ai cũng thấy hay, đúng với tâm cảnh chúng ta hiện tại phải không? Tuy nhiên, mở con mắt thiền, phản chiếu trở lại xem, có thực đúng chưa?

Cảnh, nó có đeo sầu, đeo não chăng? Hay là chúng ta lấy CÁI TA mà đeo vào nó? Đó là đem cái ta mà đo lường cảnh, đem cái ta rọi vào cảnh, nhìn cảnh qua cặp kiếng màu đen sậm một CÁI TA! Sự thật, cảnh có buồn có vui gì đâu? Chúng ta đem cái buồn vui trong lòng mình rồi gán vào cho cảnh, bắt nó buồn, nó vui theo mình, gọi đó là chân lý được sao? Các pháp từ tâm sanh là đấy!

Xưa có vị tăng ở Hải Đông qua Trung Hoa tham học, giữa đường mệt mỏi không chỗ trú , bèn tạm vào ngôi mộ cổ nghỉ qua đêm. Trong lúc đó, khát nước quá, ông nhìn qua bên cạnh thấy có nước, lấy tay vốc lên uống nghe ngọt ngào hết khát. Sáng ra, nhìn lại đó là một cái sọ người, ông liền ói mửa ra. Ngay lúc đó ông chợt tỉnh ngộ: “Một tâm chẳng sanh, muôn pháp không lỗi.”

Chúng ta thấy cái nguy hiểm của “tâm sanh” chưa? Tại sao cũng nước đó mà lúc đêm uống vào thấy ngọt ngon, muốn uống thêm, đến sáng ra nhìn lại chưa kịp uống đã nôn mửa! Nguyên nhân nằm ở chỗ nào? Chính do tâm phân biệt chứ gì? Nghĩa là, vừa xen cái tôi phân biệt vào liền có nhơ sạch sai biệt, có ngăn cách trong ngoài. Bám chặt vào cái thấy biết đó để đề cao cái TA giữa thế gian này, chính là sống trong mê lầm. Vì vậy, ngay đây nếu có ai cứ đem cái TA này đi phê bình người này, người nọ thì biết ngay là đang sống trong cái thấy biết gì, khỏi phải nói thêm nhiều!

III.THẤY BIẾT ĐÚNG NHƯ THẬT LÀ NÓ

Đã rõ cái thấy biết sai lầm méo mó như trên rồi, giờ đây chúng ta phải nhìn trở lại trong ánh sáng trí tuệ, thấy biết đúng như thật nơi các pháp. Thân này không phải ta, thấy đúng không phải ta. Tâm sanh diệt thế nào thấy đúng như thế không lầm. Núi sông thấy đúng như núi sông. Thấy biết một cách rành rõ không xen lẫn cái ta vào, không đồng hóa thấy biết với cái bị thấy, không theo một cái khuôn nào trong đầu.

Phải thấy như Phật đã nói trong kinh Pháp Hoa: “Như Lai chẳng như ba cõi mà thấy ba cõi, Như Lai thấy suốt không có sai lầm.”

Thấy không sai lầm là phải thấy như vậy. Chẳng như ba cõi mà thấy ba cõi là thấy thế nào? Tức là thấy biết tất cả thế gian trước mắt, nhưng thấy biết vẫn là thấy biết, nguyên vẹn như nó là nó, nên thấy tất cả mà không là cái gì hết. Thấy như thế tức là Như Lai thấy, ba cõi làm sao che mờ, dối gạt được nữa? Đó là thấy biết không dừng trụ trên bất cứ cái gì.

Chính chỗ này, vị tăng hỏi ngài Qui Tỉnh về cây bách của Triệu Châu, Qui Tỉnh bảo:

- Ông có tin chăng?

Tăng thưa:

- Lời quý trọng của Hòa thượng con đâu dám chẳng tin.

Qui Tỉnh bảo:

- Ông có nghe giọt mưa rơi trước thềm chăng?

Tăng chợt tỉnh la: “Chao!” và làm bài kệ:

Thiềm đầu thủy đích,

Phân minh lịch lịch.

Đả phá càn khôn,

Đương hạ tâm tức.

Nghĩa:

Giọt mưa trước thềm,

Rành rẽ rõ ràng.

Càn khôn đập nát,

Liền đó tâm dừng.

Chú ý! Từng giọt từng giọt mưa rơi, nghe biết rõ ràng rành rẽ không một chút mê mờ, thì giọt mưa vẫn là giọt mưa nhưng tâm sáng ngời không thêm bớt, lấy bỏ gì trong đó. Như vậy là chính mình đang hiện hữu ngay từng giọt mưa rơi! Thấy biết được như thế thì thấy biết cái gì cũng sáng ngời, đâu đâu cũng là Phật pháp, chân lý hiện khắp mọi nơi.

Vua Lý Thái Tông hỏi về chỗ sống hằng ngày của Thiền sư Thiền Lão, Sư đáp:

Trúc biếc hoa vàng đâu cảnh khác,

Trăng trong mây bạc lộ toàn chân.

(Thúy trúc hoàng hoa phi ngoại cảnh,

Bạch vân minh nguyệt lộ toàn chân)

Tâm Thiền sư đã sáng tỏ nên nhìn ra thấy lẽ thật toàn bày trước mắt, không có một chút gì che mờ. Chỗ nào cũng hiển lộ tánh chân ấy. Song có người nghe thế sẽ bảo: “Câu đó quá cũ rồi, tôi đã nghe nhàm lỗ tai”. Nói thế là có thấy sáng ngời được chăng? Và nói thế là biết rõ mình đang sống với cái gì? Tức đang sống với tâm quá khứ cũ xưa, với cái khuôn chết cứng trong đầu, nên liền đó hết lộ toàn chân mà “lộ toàn cái tôi” trong đó! Người học đạo cần xét kỹ điểm này.

IV. HÃY TRẢ LẠI CÁI BIẾT NGUYÊN VẸN, SẠCH MỌI KHÁI NIỆM

Như vậy, để sống được trong cái thấy biết đúng như thật ấy, chúng ta hãy trả về cái biết nguyên vẹn, sạch mọi khái niệm đóng khuôn trong đầu này. Hòa thượng Vân Môn từng thượng đường giơ cây gậy lên bảo: “Phàm phu thấy nó là thật. Nhị thừa phân tích nói là không. Viên giác thấy như huyễn. Bồ Tát thì đương thể tức không. Thiền gia thấy cây gậy là cây gậy, đi chỉ đi, ngồi chỉ ngồi, không được động đến.” Thế là thiền gia cao hơn Bồ Tát, Viên giác sao? Chỗ này người hiểu  theo ngôn ngữ dễ lầm.

- Phàm phu: vì còn mê  chấp nên  thấy cái gì cũng thật, do đó thấy cây gậy là thật cây gậy, thành bị vật che mờ ánh sáng chân thật chính mình.

- Nhị thừa: thì do phân tích sự vật theo thời gian sẽ hoại diệt, không  thật bền bĩ nên nói là không, nhưng chưa phải ngay đó thấy như thật.

- Viên giác: ngay đó thấy như huyễn không thật có, tức cũng còn có chỗ lý quán như huyễn đó! Nghĩa là còn có cái lý như huyễn để thấy.

- Bồ Tát: ngay đương thể đây thấy rõ tức không, không đợi phân tích theo thời gian mới thấy thành không. Song như thế cũng chưa khỏi còn chỗ chiếu soi cái không ấy nên vẫn chưa tột lý.

- Thiền gia: thấy đúng như thật nó là nó, không thêm bớt chút gì trong đó. Nghĩa là, ngay đó thật thể hiện tiền, không thêm một ý niệm gì khác, vì vậy bảo: “không được động đến”. Động đến tức có xen cái tôi vào!

Tuy nhiên, đây là ngầm chỉ nếu người còn kẹt trên lý sai biệt, còn vướng trong cái thấy thứ lớp tức chưa rốt ráo, không phải bảo Thiền gia cao hơn Bồ Tát, Viên Giác. Nếu người khởi cái thấy cao thấp đó, liền mê như cũ! Cốt là, sạch mọi khái niệm trong đầu, cây gậy chỉ là cây gậy, ông làm sao xen thêm cái gì để hiểu? Có thêm cái hiểu thì cây gậy không còn là cây gậy, mà đã thành “ cây gậy  của tôi”. Mê Ngộ chỉ trong đường tơ kẻ tóc ấy.

Một dịp khác, Thiền sư Quế Sâm cùng Trường Khánh, Bảo Phước đi vào trong Châu, thấy một đóa hoa mẫu đơn, Bảo Phước nói:

- Một đoá hoa mẫu đơn đẹp.

Trường Khánh bảo:

- Chớ để mắt sanh hoa!

Quế Sâm nói:

- Đáng tiếc một đóa hoa!

Ôi, chỉ một đóa hoa bình thường vô sự, bất ngờ bị ba lão gây thành sóng gió sai biệt!

Hoa, nó có nói đẹp nói xấu gì? Nó có làm mắt sanh hoa bao giờ đâu? Hoa chỉ là hoa thôi, chớ xen “ý niệm” gì khác nữa. Tuy nhiên trong đây nếu  người nhìn theo cái khuôn khái niệm trong đầu, liền bị ba lão gạt dễ dàng. Tức có người bảo, trong đó Quế Sâm hay hơn tất cả, Bảo Phước còn nói đẹp xấu, Trường Khánh còn theo đuôi Bảo Phước lấy bỏ. Đâu biết rằng “Trường Khánh, Quế Sâm và mình” đều rơi vào cái bẫy  của Bảo Phước mà không hay.

Kìa, Bảo Phước không sóng cố gây thành sóng để trêu người! Trường Khánh, Quế Sâm mỗi người tự có chỗ sống, nhưng bất ngờ bị Bảo Phước khám phá ra rồi! Chúng ta không hiểu, chen vào đó khen chê, lại rớt vào bẫy! Vậy có ai khéo trả lại đóa hoa bình thường xem!

V. TÓM KẾT

Cuối cùng ngay đây, cái gì vay mượn hãy trả về cho vay mượn, mọi thứ trả về  cho mọi thứ, trống sạch mọi khái niệm  khuôn khổ đóng cứng trong đầu, NHƯ THẬT THẤY BIẾT ĐÚNG NHƯ THẤY BIẾT, không xen thêm cái gì vào, nhất là không cái tôi xem! Tức liền đó, luôn luôn thấy  biết mới mẻ, vi diệu! Nếu bảo rằng: “Sao cứ bao nhiêu  đó nói hoài”, thì ngay đó biết rằng mình đang thấy biết với cái gì? Quả tang là với cái khuôn quá khứ trong đầu, với cái tâm quá cũ của quá khứ, chớ vội tự hào!

Chúng ta hãy nghe câu chuyện Đàm Thạnh với Dược Sơn. Đàm Thạnh đứng hầu, Dược Sơn hỏi:

- Bá Trượng nói pháp gì?

Sư thưa:

- Có khi Ngài thượng đường, đại chúng nhóm họp xong. Ngài lấy gậy đuổi tan, rồi gọi: - Đại chúng! Đại chúng xoay đầu nhìn lại, Ngài liền hỏi: - Là cái gì?

Dược Sơn bảo:

- Sao chẳng nói sớm thế ấy, ngày nay nhân ông ta thấy được Hải huynh.

Trong đây cho thấy, Đàm Thạnh chỉ nhắc lại việc cũ của Bá Trượng thôi, vì sao Dược Sơn bảo: “Nhân ông ta thấy được Hải huynh?” Tức nhân đó Dược Sơn thấy được Bá Trượng. Vậy thì ngay đó Bá Trượng hiện tiền sáng ngời, sao bảo là lời cũ được? Nhưng chúng ta nghe nhắc lại thì có thấy Bá Trượng chăng? Tại sao không thấy?

Đơn giản, bởi vì tâm chúng ta quá cũ! Bởi tâm mình quá cũ nên nghe cũng thành cũ, rồi cho là chuyện cũ, làm sao thấy được! Đây là chỗ phải nghiệm kỹ để không lầm, thành ra chỉ sống với cái cũ chết, lại tự cho là mình thông minh nghe qua liền hiểu rồi! Người học thiền phải NGHE THẤY với tâm luôn mới mẻ chưa từng trải qua ý niệm gì, thì sẽ nghe được những điều không ngờ! Đừng vội bảo lời cũ, chuyện cũ, mà hãy xét lại tâm mình có cũ không?

Và đây, có vị tăng hỏi ngài Linh Vân:

- Thế nào là chư Phật chưa ra đời?

Sư đưa cây phất tử lên.

Tăng hỏi tiếp:

- Thế nào là chư Phật đã ra đời?

Sư cũng đưa cây phất tử lên.

Vậy là Chư Phật chưa ra đời, ở đâu? Rồi Chư Phật đã ra đời thì ở đâu?

Rõ ràng cũng chỉ ngay THẤY BIẾT này thôi! Nhưng tại sao chúng ta chỉ thấy có chúng sanh ra đời? Lỗi tại ai?

chín chắn kiểm điểm lại xem, ngay bây giờ đây, chư Phật ở đâu?

Đưa quyển sách này lên được chăng?

Mong tất cả luôn luôn mở mắt, THẤY BIẾT NHƯ THẬT, đó là chỗ cùng gặp nhau trong ánh sáng chân thật.

Thích Thông Phương
Thiền Viện Trúc Lâm Phượng Hoàng
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 3447)
Muốn ít và biết đủ tiếng Hán gọi là “Thiểu dục-Tri túc”. Đây là hai khái niệm Phật học được đề cập nhiều trong Kinh tạng, Luật tạng cũng như trong Tạng vi diệu pháp.
(Xem: 3490)
Theo Tứ phần luật thì nguyên nhân Phật chế định sự an cư là do nhóm sáu người gọi là lục quần Tỳ kheo thường du hành trong nhân gian,
(Xem: 4449)
Người Á Châu không ai là không biết đến hoa Sen. Vì Á Châu chúng ta có khí hậu ấm áp, nhất là những xứ như Ấn Độ, Thái Lan, Miến Điện, Tích Lan, Lào, Cam Bốt, Việt Nam, Trung Quốc và ngay cả Đại Hàn hay Nhật Bản, hoa Sen vẫn thường nở khoe sắc thắm vào mùa Hè nắng ấm.
(Xem: 3480)
Cơn mưa phùn đêm qua còn đọng nước trên đường. Gió thu đã về. Lá vàng theo gió lác đác vài chiếc cuốn vào tận thềm hiên.
(Xem: 4473)
Ấn Độ có nhân vật huyền thoại là Duy-ma-cật; Trung Quốccư sĩ Bàng Uẩn; Việt Nam có Thượng Sỹ Tuệ Trung.
(Xem: 3408)
Theo truyền thống Phật giáo Nguyên Thủy y cứ theo lịch Ấn Độ cổ đại, bắt đầu Vũ Kỳ An Cư (Vassavāsa) từ ngày 16 tháng 6 (tháng Āsālha) và kết thúc vào ngày 16 tháng 9 (tháng Āssina).
(Xem: 4595)
Mong rằng quý vị có thể tìm được những thông tin hữu ích để giúp mình có chọn lựa tốt trong việc ăn uốngcách sống để duy trì hoặc cải thiện sức khỏe của mình.
(Xem: 3568)
Trước tiên muốn hiểu về vấn đề này, chúng ta phải biết rõ, tin sâu và chấp nhận thuyết “nhân quả, luân hồi” !
(Xem: 3386)
Cơn dịch Coronavirus vẫn tiếp tục hoành hành khắp nơi, đã gần hai năm rồi nhưng chưa thấy có dấu hiệu nó suy yếuchấm dứt, thậm chí ngược lại, nó còn sinh sản ra những chủng mới nguy hiểm hơn.
(Xem: 3874)
Sách dày 572 trang kể cả phần tiếng Anh. Riêng phần tiếng Việt bắt đầu từ trang 1 đến trang 272 và phần tiếng Anh bắt đầu từ trang 277 đến cuối sách. Sách do Phật Việt Tùng Thư tại Hoa Kỳ xuất bản lần thứ nhất năm 2021
(Xem: 3175)
Đọc tiểu sử của Hòa Thượng Tuệ Sỹ để chúng ta biết rằng Ngài là một bậc Vô Sư Trí, tự tu học, nhưng biết rất nhiều sinh ngữ như: Anh, Pháp, Đức và các cổ ngữ như: tiếng Phạn, Pali, Tây Tạng v.v…
(Xem: 3527)
Giới luật Phật giáo không dành riêng cho đối tượng nào nhưng hàng xuất gia là đối tượng bắt buộc phải học giới luật Phật giáo.
(Xem: 3510)
Trong suốt những năm tháng hoằng pháp độ sanh Đức Phật luôn chú trọng đến mục đích chính là giải thoát con người ra khỏi ...
(Xem: 3470)
Với tâm kiêu ngạo, tự cao tự đại mà nói nhiều lại càng nguy hiểm hơn. Điều mà vị Tỳ-kheo vô sự cần thể hiện là bớt nói lại và nghe nhiều lên.
(Xem: 3636)
Đức Phật dạy “Nhất thiết duy tâm tạo” hay “Tâm dẫn đầu các pháp”, tâm ý quyết định kết quả của hành vi con người.
(Xem: 3317)
“Thiền sư Thường Chiếu (?-1203), thế hệ Thứ Mười Hai, thiền phái Vô Ngôn Thông.
(Xem: 4188)
Vì muốn tạo sự thanh thản cho chư Tôn Đức Tăng Ni và quý Phật Tử Học Viên trong thời điểm căng thẳng của Covid-19, cho nên Giáo Hội quyết định chọn 3 ngày cuối của 2 tuần lễ và 3 ngày cuối tuần lễ thứ nhất là ngày 9, 10, 11/07/2021...
(Xem: 3768)
Bắt phong trần phải phong trần. Cho thanh cao mới được phần thanh cao.
(Xem: 3574)
“Phật tánh là Như Lai tạng” (phẩm Như Lai tánh). Tạng có nghĩa là bao trùm chứa giữ tất cả chúng sanh và muôn sự muôn vật, tất cả hiện hữu thanh tịnhbất tịnh.
(Xem: 3609)
Đừng vấn vương quá khứvọng tưởng tương lai Quá khứ đã qua rồi Ngày mai còn chưa tới
(Xem: 3948)
Chữ nghiệp trong nhà Phật nói, ý nghĩa của nó rất sâu rộng. Ở đây, chúng tôi chỉ xin giải đáp một cách đại khái sơ lược thôi.
(Xem: 3309)
Phật giáo trên con đường truyền bá và hội nhập luôn gắn liền với hai yếu tố căn bản: khế lý và khế cơ.
(Xem: 3453)
Câu chuyện nhỏ, do cơ duyên, xảy ra đã lâu, dường như lâu tới hơn hai thế kỷ! Lâu vậy, mà như không lâu, câu chuyện, ngỡ bình thường mà...
(Xem: 3289)
Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa, đã được chính Đức Thế Tôn tuyên dương là Bổn Kinh Thượng Thừa, bao gồm những bí yếu cực kỳ nhiệm mầu
(Xem: 5517)
Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa, đã được chính Đức Thế Tôn tuyên dương là Bổn Kinh Thượng Thừa, bao gồm
(Xem: 3634)
Vận mạng của một thực thể đi qua trong nhận thức được giới hạn ở hai đầu sinh và diệt, đoạn và thường của không gianthời gian
(Xem: 3838)
Trong bài phát biểu của Ngài trước đám đông đến từ Tây Tạng vào ngày 27 tháng 3 năm 2006 vào cuối buổi thuyết giảng
(Xem: 3519)
Theo Phật giáo, nghiệp là hành động có tác ý, chủ ý của thân (Kāya, 身), khẩu (Vacī, 口), ý (Mano, 意).
(Xem: 3584)
Bạch Đức Thế Tôn, sau khi một chúng sanh qua đời họ sẽ tái sanh về đâu?
(Xem: 3778)
Từ xưa đến nay người ta vẫn thường nhắc đến chữ Tâm trong đời sống, coi đó như một phẩm chất đạo đức, một yếu tố ...
(Xem: 3520)
Mỗi năm, khi mùa mưa đến, chư Tăng Ni thường thu xếp mọi duyên để tập trung về một trụ xứ nhằm thực hiện phận sự an cư.
(Xem: 3914)
Một thời Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng Lâm, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo rằng:
(Xem: 3870)
Từ xưa đến nay, nhiều người cho rằng, Đạo Phật chuyên nói về những điều cao siêu huyền bí, rất khó để một con người bình thường thực hành theo.
(Xem: 3654)
Phật giáo Nam tông Theravāda tuy không chú trọng về lễ nghi, cúng bái hoặc sám tụng nhưng trong các nghi lễ Phật giáo thì...
(Xem: 3830)
Xung quanh các hiện tượng mê tín dị đoan “có tổ chức” diễn ra gần đây, đã có nhiều ý kiến trái chiều về “con đường tu tập”
(Xem: 3543)
Lắng nghe và thấu hiểu là hai chất liệu vô cùng cần thiết để hiến dâng cho đời, có khả năng xóa đi những nỗi khổ niềm đau
(Xem: 4153)
Chủ đề bài này là nói về tỉnh thức với tâm không biết. Như thế, nghĩa là những gì rất mực mênh mông, vì cái biết luôn luôn là có hạn.
(Xem: 3708)
Một khi Đức Đạt Lai Lạt Ma rời Tây Tạng, ngài sẽ phải đối diện với nhiệm vụ khó khăn về việc nói với thế giới những gì đã xảy ra...
(Xem: 4123)
Có hôm nghe một trí thức Việt Nam cho rằng, Phật giáo xem cuộc đời sanh đó, tử đó, thật chẳng có ý nghĩa gì. Mọi sự mọi vật trên thế gian trong cái nhìn của đạo Phật, đều là huyển, ảo.
(Xem: 3526)
Năm 1959 một sự đe dọa của Tàu Cộng chống lại Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa đến sự phản kháng ở Lhasa.
(Xem: 3398)
Đạo Phật ra đời cách đây đã hơn 25 thế kỷ và trải qua bao cuộc thăng trầm của lịch sử, vẫn phát triển rực rỡ đến ngày nay.
(Xem: 3780)
Theo quan điểm Phật Giáo, tâm của một người bình thường thì yếu đuối và bị lệch lạc bởi những ảo tưởng và nỗi khổ mà họ chất chứa bên trong.
(Xem: 3719)
’Khi một ngôi sao đốt cháy hết nhiên liệu, nó có thể bắt đầu quá trình suy sụp.
(Xem: 4264)
Trong cuộc sống, chúng ta thường mong muốn có được hạnh phúc và tránh né sự hiện hữu của khổ đau đến với mình.
(Xem: 3994)
Phật pháp có nhiều pháp môn tu tập thích hợp cho nhiều căn cơ, hoàn cảnh khác nhau.
(Xem: 3509)
Dưới ánh mặt trời, mọi ảo tượng, ảo ảnh đều tan biến. Mọi thứ đều hiển lộ. Không gì khuất tất. Không gì có thể gợi lên sự hoài nghi, mộng tưởng.
(Xem: 3486)
Sau khi đạt được Giác ngộ, Đức Phật nêu lên Bốn Sự Thậtsự thật thứ nhất là "Khổ đau".
(Xem: 3517)
Thiền sư Pháp Loa đã kế thừa và để lại di sản lớn cho thiền phái Trúc Lâm nói riêng, Phật giáo Việt Nam nói chung.
(Xem: 3123)
Trong kỳ Đại Hội Khoáng Đại kỳ II lần nầy chúng con tôi) được phép trình bày với quý Ngài và quý vị một đề tài có liên quan đến sự tu học
(Xem: 3263)
Kinh Đại Bát Niết Bàn nói: “Phật tánh gọi là đại tín tâm. Vì do tín tâmĐại Bồ tát được đầy đủ Bố thí ba la mật cho đến Bát nhã ba la mật.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant