Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Cuộc Cách Mạng Của Người Xuất Sĩ Trên Con Đường Sinh Tử

30 Tháng Tám 201915:47(Xem: 5273)
Cuộc Cách Mạng Của Người Xuất Sĩ Trên Con Đường Sinh Tử
Cuộc Cách Mạng Của Người Xuất Sĩ Trên Con Đường Sinh Tử 

Thích Tâm An


khat thuc

Cách Mạng chính là sự xóa bỏ đi cái cũ đã lạc hậu cũ kỹ và thay thế bởi một cái mới hơn, phát triển hơn và để cho hợp với thời đại hơn. Lịch sử đã đi qua với bao thăng trầm theo đó cũng là bao nhiêu những cuộc cách mạng không chỉ về hình thái chính trị-xã hội mà nó còn có mặt và diễn ra trên các lĩnh vực kinh tế-văn hóa của đời sống của loài người. Những cuộc cách mạng luôn được nuôi dưỡng, bộc phát rồi chúng diễn ra và đi đến kết quả trong mọi thời đại, mọi tầng lớp bởi hai hiện thực của sự khách quan và chủ quan mà làm nên được điều đó. Khách quan chính là mọi vấn đề trong thời điểm đó đang diễn ra gay gắt đòi hỏi cần có một sự phát triển để thay thế cái cũ đã lỗi thời hay không còn phù hợp. Chủ quan kia, đó chính là sự phát triển về nhận thức của con người ở trong thời điểm này để đi đến việc thực hiện một cuộc cách mạng mà chưa cần bàn tới “cách mạng về cái gì, hay điều gì đó”.

Có rất nhiều những cuộc cách mạng của chính trị, công nghiệp, nông nghiệp, văn hóa… đã diễn ra trong dòng lịch sử. Phật giáo với những người xuất sĩ trong đây cũng không đặt bản thân mình ra khỏi cuộc cách mạng ấy. Nhưng có những điểm nổi bật và riêng biệt rằng, cuộc cách mạng của những người xuất sĩ ấy đều giống nhau trong mục đích, giống nhau trong tiến trình cách mạng, đều diễn ra không bao giờ có được hồi kết chung cho toàn bộ người xuất sĩ mà chỉ có được sự thành công đối với những cá nhân người xuất sĩ nhỏ lẻ. Mỗi ai khi bắt đầu đưa thân mình vào hình tướng khác xa thế tục bước đi trên con đường xuất sĩ là đều sẽ bắt đầu cuộc cách mạng cho chính mình. Một cuộc cách mạng của mọi tầng lớp xuất sĩ, mọi đứa con thơ của Bụt đều phải làm điều ấy.

Cuộc cách mạng này của người xuất sĩ đầy gian chuân, giống như người đi ngược chiều trong cơn bão tố, giống như người lái đò chèo ngược dòng chảy đang đầy dữ dội kia để tới đích cần phải đến. Mỗi người tham gia trong cuộc cách mạng này rất cần có trong mình một ý chí, một lập trường tư tưởng và một sự tinh tấn thật mãnh liệt không ngừng nghĩ mới có thể đi đặng. Trong đây, người xuất sĩ tiến hành cách mạng trên hai lĩnh vực chính là cách mạng về thân và cách mạng về tâm nhưng có cùng chung một đích đến là xây dựng một cuộc sống đầy an lạchạnh phúc. Cuộc cách mạng này với sự thật khách quan về kiếp nhân sinh đầy khổ đau luôn tiếp biến hoạt diệt trong dòng sinh tửthúc đẩy, liền đặt ra sự cấp thiết là mong muốn khỏi cái khổ đau ấy mà thay thế bằng niềm vui và hạnh phúc. Với sự thật chủ quan dẫn đến cuộc cách mạng ấy thì đó là tự nơi mỗi người xuất sĩ, họ đặt ra cho mình vấn đề cấp thiếtđi vào nhận thức rằng: muốn ra khỏi con đường của khổ đau sinh tử luân hồi, cần thiết hơn cả là đưa mình vào trong đường xuất thế để có thể một cách tốt nhất làm công cuộc cách mạng kia đối với chính mình và làm được cho người để cùng nhau đi đến một trạng thái đầy ai vui, hạnh phúcgiải thoát.

Mỗi cuộc cách mạng đều có những phương hướng, những  đường lối rõ ràngrành mạch chắc chắn để có thể đi đến thắng lợi vẻ vang. Thì ở đây những người xuất sĩ đã luôn có sẵn phương hướng và đường lối ấy cho mình  bởi nó đã được Bụt vạch ra từ trên 2500 năm trước, chỉ cần người xuất sĩ đủ dũng cảm để tiến hành bước đi bắt đầu cho cuộc cách mạng này.

Với thân, đầu tiên đó chính là cách mạng thay đổi từ hình dáng của người thế tục với trang phục đầy phong phú, đầu tóc gọn gàng đẹp đẽ và hợp mốt, trên thân phải có cái mùi thơm đặc trưng đủ để khoe cá tính… Thì người xuất sĩ sẽ phải cạo bỏ đi mái tóc và bộ râu góp phần tô điểm vẻ đẹp của dáng người của mình. Trên thân thì từ bỏ những trang phục có phần quý phái hay lộng lẫy mà khoác lên màu áo nhuộm bạc màu để làm cho mình khác biệt một cách giải thoát trong cuộc thế đầy những khác biệt của sự ganh đua.  Người xuất sĩ chẳng cần một mùi hương của loài hoa, mùi thơm của mảnh gỗ nhỏ hay mùi nước hoa toát ra trên thân thể của mình để làm cho người say đắm mà cũng đã tự có một mùi hương đặc trưng thật độc quyền, đó chính là hương của đức hạnh, hương của giới luật. Mùi hương ấy phát ra khiến cho mọi người đều sinh khởi tâm không dám coi thường, xem nhẹ. Trên bước đầu của cuộc cách mạng này đối với những người đã phát tâm xuất sĩ đều sẽ làm được  những điều đó, từ đây có nền tảng tiến thân mình trên những bước tiếp theo của cuộc cách mạng ngàn đời, muôn thế hệ.

Tiếp trên con đường cách mạng của người xuất sĩ, họ phải tăng tiến thêm với cấp bậc khó hơn đối với đời sống của mình. Họ cần phải từ bỏ sự sát hại thân mạng của đồng loại hay của những chủng loài khác để nuôi sống bản thân mình. Họ cần phải từ bỏ lối sống lấy của người mà không có sự đồng ý của họ để trợ giúp cho cuộc sống của mình thêm đầy đủ. Họ phải đoạn tuyệt trong cuộc sống của mình từ những ý nghĩ của tình ái, sự hoan ca của dục tình với không chỉ tự mình thỏa mãn hay đối với người mà còn đối với cả những loài động vật. Họ chấm dứt sự nói năng thô tháo, những lời nói mang lại những nỗi khổ niềm đau cho mình, cho người và cho vật. Họ tránh xa những thực phẩm trôi nổi trong nền kinh tế gây ảnh hưởng cho sức khỏetinh thần của mình để có được một sức khỏetinh thần thuần khiết không cần dựa vào những thực phẩm không lành mạnh trong xã hội ấy. Bởi trong tất cả những điều này họ nhận thức được khổ đau của chính mình và đối với người khác mà họ không để cho mình đi chệch quá xa với phương châm này của cuộc cách mạng. Bởi họ mong muốn mình cũng như người khác đều ra khỏi những trạng thái của nỗi khổ niềm đau nên đã không làm những điều có hại cho cả mình và người mà rộng hơn là đến mọi loài. Sự ý thức được khổ đau của giết hại, sự khổ đau của trộm cắp, sự khổ đau của tình dục, sự khổ đau của những lời nói không thiện và sự khổ đau của những chất kích thích gây ra nên người xuất sĩ đã không làm những điều đó hay xui khiến người khác làm những điều đó. Ở đây họ đã phát triển tình thương yêu của mình thật rộng lớn đối với tất cả con người hay loài vật và họ vui vẻ cũng như không chấp trước vào những điều tốt đẹp mình đã làm. Đến đây thì người xuất sĩ đã bước thêm được một bước nữa trên con đường cách mạng của mình đầy thành công buổi đầu, với sự phòng hộ bởi tường rào cao ngất ngưởng và kiên cố. Hàng rào này được gọi là Giới Luật trong cuộc cách mạng này. Thế nhưng những người tham gia cuộc cách mạng này từ trước đến đây cũng đã hy sinh vài đồng chí xuất sĩ đáng yêu bởi họ thiếu sự kham nhẫn, thiếu sự tinh tấn và chưa có được một cái nhìn hiểu thấu bằng trí tuệ.

Để thúc đẩy cho cuộc cách mạng này thành công, bước tiếp theo người xuất sĩ tiến thân mình trên những bước tiếp thật dũng mãnh. Họ phải giành nhiều khoảng thời gian của cuộc đời ban tặng cho mình để làm lắng dịu thân tâm trong những thời khóa tu tập hành trì, những sinh hoạt nghiêm khắc đúng thời giờ để rèn luyện thân thểrèn luyện tâm thức. Chuẩn bị tư trang đi vào bước đường đầy gian khó hơn của cuộc cách mạng mà mình đã chọn. Đó chính là hành trang cho bước đường cách mạng về Tâm của chính người xuất sĩ. Với những hành tướng bên ngoài thông qua sáu cánh cửa tiếp xúc là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý ngay lập tức bọn giặc mang tên phiền não xâm nhậpphát khởi trong tâm của người xuất sĩ. Nó với nhiều loại binh tướng như loại có tên hình sắc, loại có tên âm thanh, loại có tên mùi hương, loại có tên vị nếm, loại có tên cảm xúc và loại có tên ý tưởng. Chúng với những vũ khí thật tối tân, mạnh mẽ như tham lam, sân giận, si mê, tà kiến, vọng tưởngái dục, não hại, ác ý, thù nghịch… chúng luôn tiêm nhiễm vào tâm thức chúng ta những nỗi khổ niềm đau rồi từ đó phát sinh ra bản thân bởi những ngôn từ và hành động đầy vị đắng. Vì thế mà người xuất sĩ phải dùng đến một loại vũ khí đa dụng có sức đả thương mãnh liệt khiến cho quân địch kia khiếp sợ mà dần tan tác tả tơi. Vũ khí ấy đó chính là Chánh Niệm, tức là sự định tĩnh –thiền định của thân và tâm thức. Chánh niệm, là vũ khí tốt nhất của người xuất sĩ với công dụng để đánh trả lại được đối với tất cả những loại giặc. Bằng công dụng của nó, chánh niệm đã phát huy khả năng chiến đấu của mình trên chiến trường của  thân, trên chiến trường của tâm, trên chiến trường có tên cảm thọ và với những đối tượng bên ngoài sinh ra giặc phiền  não ấy.

Chánh niệm trên chiến trường thân, bằng những đường dây kết nối chỉ dẫn tân tiến, người xuất sĩ thấy rõ được hình tướng của mình, rằng nó đang thể hiện ra bên ngoài một cách thô tháo khiến kẻ địch nhận thấy mình hay uyển chuyển nhẹ nhàng làm mất đi tầm ngắm của bọn địch phiền não kia với chính ta. Điều này chính là sự quan sát, nhìn nhận đầy đúng đắn hay còn gọi là Chánh Kiến. Bằng cái máy khuyếch đại âm thanh người xuất sĩ lắng nghe được nhịp đập của con tim mình và nghe được cả những bước dịch chuyển vào ra của hơi thở để từ đó người xuất sĩ cảm nhận rõ ràng được nó và hiểu sâu về nó, đó chính là sự nhớ nghĩ thật chuyên chú và nó được gọi là Chánh Niệm của chánh niệm. Nhận diện được hơi thở, hiểu sâu và chuyển hóa nó là người xuất sĩ ấy đã hiểu được phần nào chính bản thân của mình nhờ vào sự lắng nghe và cảm nhận. Khi ấy người xuất sĩ mới có thể kết hợp được một cách hài hòa uyển chuyển mọi bộ phận của mình và của vũ khí khi tham gia chiến đấu và thậm chí là từng thớ thịt, dây thần kinh trong việc chiến đấu. Những điều này được người xuất sĩ phối hợp nhịp nhàng giữa thân thể, lời nóiý nghĩ. Chúng được coi là sự tư duy nhận định đúng đắn, những lời nói đúng đắn và những hành động đầy lợi ích. Trên đường cách mạng của mình những người xuất sĩ gọi đó là Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Ngiệp. Đồng thời với bộ phận nhìn xuyên thấu, người xuất sĩ thấy rõ được từng bộ phận trên thân thể của mình có bao nhiêu thứ, chúng hoạt động và luôn thay đổi ra sao, từ đây người xuất sĩ cũng có được cái nhìn toàn diện trân thân thể của kẻ địch để nắm bắt được đường đi nước bước mà tìm ra những điểm yếu của chúng, đó là sự nhìn nhận và phát triển thân thể một cách đúng đắn mà danh từ chuyên môn trong cuộc cách mạng này đã dùng với cái tên là Chánh Mạng. Người xuất sĩ oai nghiêm dương cao nòng súng chắc chắn để ngắm nhìn kẻ địch bằng sự vững chãi không lay chuyển , lên nòng và rồi sẵn sàng “bắn”. Sự chắc chắn ngắm nhìn để chờ thời cơ ấy là sự cố gắng-là Chánh Tinh Tấn được người xuất sĩ sử dụng và sự vững chãi ấy chính là thiền định tức là Chánh Định, sự định thân và tâm thật thảnh thơi mà ngóng chờ kẻ địch. Và rồi viên đạn bắn ra kia chính là trí tuệ, là sự hiểu biết chắc chắn không còn nghi ngờ gì về đường đi nước bước của kẻ địch để mà bắn trúng và đầu não của nó. Trí Tuệ ấy chính là Chánh Trí, điều kiện cần thiết để cuộc cách mạng của người xuất sĩ đi đến được thành công vang dội với những thắng lợi thật vẻ vang trong dũng mãnh.

Năm điều đầu tiên mà người xuất sĩ sử dụng được thành công tức là đã bảo vệ được hàng rào chính yếu có tên Giới Luật. Điều này đã làm tăng trưởng lòng Từ Bi, khoan dung, Hỷ Xả của chính người xuất sĩ với mình và với chính kẻ địch hung hãn. Đối với bước tiếp theo của cuộc chiến cách mạng, người xuất sĩ tiến hành vững chãi trên Tám bước quan trọng bằng Trí tuệ sáng suốt để kiên cường chiến đấu chống bọn giặc phiền não với lòng Dũng cảm đầy hào khí mạnh mẽ như muốn đánh tan giông ba bão táp của vũ trụ. Điều này tóm gọn lại được gọi là “Bi-Trí-Dũng” mà đức Bụt đã vạch ra thành kế sách chiến đấu toàn vẹn giống như chiếc lưới thả vào trong nước có thể bao trùm tất cả những thứ gì đang có trong dòng nước lúc ấy.

Đến lúc này thì người xuất sĩ mới chỉ thắng và giành được một vài những đồn, trạm của kẻ địch. Nhưng với trí tuệ của mình, người xuất sĩ đã không cho phép mình quá đắm chìm vào cảm giác vui sướng khi chiến thắng, hay đau khổ khi bị chút thương tích trên người hoặc có chút sợ hãi đối với kẻ địch phía sau. Người xuất sĩ làm chủ những cảm xúc của mình để không dừng lại ở đây, những chiến binh xuất sĩ tiếp tục đi và dùng một vài chiêu đã có sẵn trong kế sách ấy để chống lại sự phản kháng của bọn giặc tham lam, sân hận, giận giữ, não hại, vọng tưởng, tà kiến…còn sót lại. Người xuất sĩ trên đường chiến đấu thực hiện lý tưởng cách mạng đã mang đầy thương tích bởi thân thể này hợp bởi những thứ không vững chãi (vô thường của 5 uẩn) hễ động dao là thịt rách, bị đạn thì lòi gân lộ thịt… và rồi những sự uể oải mệt mỏi (hôn trầm-thùy miên), hay tâm dao động tán loạn (trạo cử) trước những khó khăn thử thách làm cho họ phát điên (sân) vì kẻ địch và về những thiếu thốn của mình, khiến cho họ hiếu chiến-háo thắng (tham) và thậm chí tranh giành lẫn nhau cả về chiến công lẫn những phương tiện hỗ trợ, rồi tự họ khiến mình nảy sinh những nghi ngờ (nghi) về con đường cách mạng mà mình đang đi, những phương pháp mà mình đang sử dụng. Thế nhưng với lòng tin (tín), ý chí, nghị lực, sự mong muốn an lạc (nguyện) khi đánh tan bọn giặc kia và nhớ lại mục đích (hạnh) của mình khi bước chân lên đường cách mạng. Người xuất sĩ làm cho trí tuệ của mình được sử dụng hết công năng và rồi họ tiếp tục tiến bước trên con đường cách mạng đầy gian khó. Và sự thật rằng, khi đi đến đây lại có thêm rất nhiều những chiến binh xuất sĩ bị đánh gục bởi những trở ngại ấy, làm cho họ chùn chân, rời gót khỏi đường cách mạng bởi vì họ đắm chìm vào sự yếu đuối của mình, họ đã làm cho chính mình không còn mấy đáng yêu nữa.

Những người xuất sĩ còn lại, họ tiếp tục bước trong cuộc cách mạng mà mình đã trọn bằng cả tấm chân tình trong trí tuệ chiến đấu và sự kiên cường định tâm thật bất khuất. Họ dần dần hoàn thiện toàn bộ kế sách, chiến lược mà đức Bụt đã vạch ra, ở đó họ cũng thêm thắt hay lược bớt đi một vài những chi tiết nho nhỏ để cho phù hợp với hoàn cảnh đang diễn ra của thời đại. Họ chăm chú nỗ lực hết mình, họ hướng thêm được nhiều người thay thế vào chỗ của những người xuất sĩ đã bỏ được. Và họ cùng nhau lên đường, cùng trao đổi, cùng truyền dạy cho nhau, cùng rút kinh nghiệm cho nhau và cùng nhau chiến đấu cho đến khi thế hệ trước giành được thắng lợi vẻ vang, thực hiện được cuộc cải cách nhỏ lẻ trên chính mình. Những người ấy đã đạt được kết quả của cuộc cách mạng trên đường sinh tử mà họ đã chọn làm. Họ được an lạc, hạnh phúc, thoát khỏi sự nô lệáp bức của bọ giặc gian sảo kia và rồi họ đi tiếp trong cuộc đời bằng con đường trao truyền tư tưởngphương pháp, đường lối của cuộc cách mạng ấy. Để cho những người đi sau nếu có trọn bước đi trên con đường cách mạng này đều có được phương hướng chiến đấu, cải cách thật phù hợp để rồi họ tiến hành cách mạng trong cuộc sinh tử thật thành công và rồi họ lại trở thành những người đi trước với bao chiến công lừng lẫy vang dội khắp đất trời.

Thích Tâm An
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 4434)
Người Á Châu không ai là không biết đến hoa Sen. Vì Á Châu chúng ta có khí hậu ấm áp, nhất là những xứ như Ấn Độ, Thái Lan, Miến Điện, Tích Lan, Lào, Cam Bốt, Việt Nam, Trung Quốc và ngay cả Đại Hàn hay Nhật Bản, hoa Sen vẫn thường nở khoe sắc thắm vào mùa Hè nắng ấm.
(Xem: 3459)
Cơn mưa phùn đêm qua còn đọng nước trên đường. Gió thu đã về. Lá vàng theo gió lác đác vài chiếc cuốn vào tận thềm hiên.
(Xem: 4459)
Ấn Độ có nhân vật huyền thoại là Duy-ma-cật; Trung Quốccư sĩ Bàng Uẩn; Việt Nam có Thượng Sỹ Tuệ Trung.
(Xem: 3402)
Theo truyền thống Phật giáo Nguyên Thủy y cứ theo lịch Ấn Độ cổ đại, bắt đầu Vũ Kỳ An Cư (Vassavāsa) từ ngày 16 tháng 6 (tháng Āsālha) và kết thúc vào ngày 16 tháng 9 (tháng Āssina).
(Xem: 4568)
Mong rằng quý vị có thể tìm được những thông tin hữu ích để giúp mình có chọn lựa tốt trong việc ăn uốngcách sống để duy trì hoặc cải thiện sức khỏe của mình.
(Xem: 3555)
Trước tiên muốn hiểu về vấn đề này, chúng ta phải biết rõ, tin sâu và chấp nhận thuyết “nhân quả, luân hồi” !
(Xem: 3369)
Cơn dịch Coronavirus vẫn tiếp tục hoành hành khắp nơi, đã gần hai năm rồi nhưng chưa thấy có dấu hiệu nó suy yếuchấm dứt, thậm chí ngược lại, nó còn sinh sản ra những chủng mới nguy hiểm hơn.
(Xem: 3854)
Sách dày 572 trang kể cả phần tiếng Anh. Riêng phần tiếng Việt bắt đầu từ trang 1 đến trang 272 và phần tiếng Anh bắt đầu từ trang 277 đến cuối sách. Sách do Phật Việt Tùng Thư tại Hoa Kỳ xuất bản lần thứ nhất năm 2021
(Xem: 3158)
Đọc tiểu sử của Hòa Thượng Tuệ Sỹ để chúng ta biết rằng Ngài là một bậc Vô Sư Trí, tự tu học, nhưng biết rất nhiều sinh ngữ như: Anh, Pháp, Đức và các cổ ngữ như: tiếng Phạn, Pali, Tây Tạng v.v…
(Xem: 3508)
Giới luật Phật giáo không dành riêng cho đối tượng nào nhưng hàng xuất gia là đối tượng bắt buộc phải học giới luật Phật giáo.
(Xem: 3493)
Trong suốt những năm tháng hoằng pháp độ sanh Đức Phật luôn chú trọng đến mục đích chính là giải thoát con người ra khỏi ...
(Xem: 3453)
Với tâm kiêu ngạo, tự cao tự đại mà nói nhiều lại càng nguy hiểm hơn. Điều mà vị Tỳ-kheo vô sự cần thể hiện là bớt nói lại và nghe nhiều lên.
(Xem: 3631)
Đức Phật dạy “Nhất thiết duy tâm tạo” hay “Tâm dẫn đầu các pháp”, tâm ý quyết định kết quả của hành vi con người.
(Xem: 3307)
“Thiền sư Thường Chiếu (?-1203), thế hệ Thứ Mười Hai, thiền phái Vô Ngôn Thông.
(Xem: 4166)
Vì muốn tạo sự thanh thản cho chư Tôn Đức Tăng Ni và quý Phật Tử Học Viên trong thời điểm căng thẳng của Covid-19, cho nên Giáo Hội quyết định chọn 3 ngày cuối của 2 tuần lễ và 3 ngày cuối tuần lễ thứ nhất là ngày 9, 10, 11/07/2021...
(Xem: 3754)
Bắt phong trần phải phong trần. Cho thanh cao mới được phần thanh cao.
(Xem: 3569)
“Phật tánh là Như Lai tạng” (phẩm Như Lai tánh). Tạng có nghĩa là bao trùm chứa giữ tất cả chúng sanh và muôn sự muôn vật, tất cả hiện hữu thanh tịnhbất tịnh.
(Xem: 3585)
Đừng vấn vương quá khứvọng tưởng tương lai Quá khứ đã qua rồi Ngày mai còn chưa tới
(Xem: 3919)
Chữ nghiệp trong nhà Phật nói, ý nghĩa của nó rất sâu rộng. Ở đây, chúng tôi chỉ xin giải đáp một cách đại khái sơ lược thôi.
(Xem: 3283)
Phật giáo trên con đường truyền bá và hội nhập luôn gắn liền với hai yếu tố căn bản: khế lý và khế cơ.
(Xem: 3440)
Câu chuyện nhỏ, do cơ duyên, xảy ra đã lâu, dường như lâu tới hơn hai thế kỷ! Lâu vậy, mà như không lâu, câu chuyện, ngỡ bình thường mà...
(Xem: 3276)
Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa, đã được chính Đức Thế Tôn tuyên dương là Bổn Kinh Thượng Thừa, bao gồm những bí yếu cực kỳ nhiệm mầu
(Xem: 5482)
Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa, đã được chính Đức Thế Tôn tuyên dương là Bổn Kinh Thượng Thừa, bao gồm
(Xem: 3616)
Vận mạng của một thực thể đi qua trong nhận thức được giới hạn ở hai đầu sinh và diệt, đoạn và thường của không gianthời gian
(Xem: 3828)
Trong bài phát biểu của Ngài trước đám đông đến từ Tây Tạng vào ngày 27 tháng 3 năm 2006 vào cuối buổi thuyết giảng
(Xem: 3499)
Theo Phật giáo, nghiệp là hành động có tác ý, chủ ý của thân (Kāya, 身), khẩu (Vacī, 口), ý (Mano, 意).
(Xem: 3573)
Bạch Đức Thế Tôn, sau khi một chúng sanh qua đời họ sẽ tái sanh về đâu?
(Xem: 3766)
Từ xưa đến nay người ta vẫn thường nhắc đến chữ Tâm trong đời sống, coi đó như một phẩm chất đạo đức, một yếu tố ...
(Xem: 3503)
Mỗi năm, khi mùa mưa đến, chư Tăng Ni thường thu xếp mọi duyên để tập trung về một trụ xứ nhằm thực hiện phận sự an cư.
(Xem: 3900)
Một thời Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng Lâm, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo rằng:
(Xem: 3859)
Từ xưa đến nay, nhiều người cho rằng, Đạo Phật chuyên nói về những điều cao siêu huyền bí, rất khó để một con người bình thường thực hành theo.
(Xem: 3643)
Phật giáo Nam tông Theravāda tuy không chú trọng về lễ nghi, cúng bái hoặc sám tụng nhưng trong các nghi lễ Phật giáo thì...
(Xem: 3818)
Xung quanh các hiện tượng mê tín dị đoan “có tổ chức” diễn ra gần đây, đã có nhiều ý kiến trái chiều về “con đường tu tập”
(Xem: 3532)
Lắng nghe và thấu hiểu là hai chất liệu vô cùng cần thiết để hiến dâng cho đời, có khả năng xóa đi những nỗi khổ niềm đau
(Xem: 4141)
Chủ đề bài này là nói về tỉnh thức với tâm không biết. Như thế, nghĩa là những gì rất mực mênh mông, vì cái biết luôn luôn là có hạn.
(Xem: 3690)
Một khi Đức Đạt Lai Lạt Ma rời Tây Tạng, ngài sẽ phải đối diện với nhiệm vụ khó khăn về việc nói với thế giới những gì đã xảy ra...
(Xem: 4104)
Có hôm nghe một trí thức Việt Nam cho rằng, Phật giáo xem cuộc đời sanh đó, tử đó, thật chẳng có ý nghĩa gì. Mọi sự mọi vật trên thế gian trong cái nhìn của đạo Phật, đều là huyển, ảo.
(Xem: 3518)
Năm 1959 một sự đe dọa của Tàu Cộng chống lại Đức Đạt Lai Lạt Ma đưa đến sự phản kháng ở Lhasa.
(Xem: 3381)
Đạo Phật ra đời cách đây đã hơn 25 thế kỷ và trải qua bao cuộc thăng trầm của lịch sử, vẫn phát triển rực rỡ đến ngày nay.
(Xem: 3765)
Theo quan điểm Phật Giáo, tâm của một người bình thường thì yếu đuối và bị lệch lạc bởi những ảo tưởng và nỗi khổ mà họ chất chứa bên trong.
(Xem: 3699)
’Khi một ngôi sao đốt cháy hết nhiên liệu, nó có thể bắt đầu quá trình suy sụp.
(Xem: 4244)
Trong cuộc sống, chúng ta thường mong muốn có được hạnh phúc và tránh né sự hiện hữu của khổ đau đến với mình.
(Xem: 3982)
Phật pháp có nhiều pháp môn tu tập thích hợp cho nhiều căn cơ, hoàn cảnh khác nhau.
(Xem: 3490)
Dưới ánh mặt trời, mọi ảo tượng, ảo ảnh đều tan biến. Mọi thứ đều hiển lộ. Không gì khuất tất. Không gì có thể gợi lên sự hoài nghi, mộng tưởng.
(Xem: 3477)
Sau khi đạt được Giác ngộ, Đức Phật nêu lên Bốn Sự Thậtsự thật thứ nhất là "Khổ đau".
(Xem: 3500)
Thiền sư Pháp Loa đã kế thừa và để lại di sản lớn cho thiền phái Trúc Lâm nói riêng, Phật giáo Việt Nam nói chung.
(Xem: 3107)
Trong kỳ Đại Hội Khoáng Đại kỳ II lần nầy chúng con tôi) được phép trình bày với quý Ngài và quý vị một đề tài có liên quan đến sự tu học
(Xem: 3250)
Kinh Đại Bát Niết Bàn nói: “Phật tánh gọi là đại tín tâm. Vì do tín tâmĐại Bồ tát được đầy đủ Bố thí ba la mật cho đến Bát nhã ba la mật.
(Xem: 4603)
Thời đại bây giờ hầu như con người cứ bị xoáy vào cơn lốc của cuộc sống một cách mãnh liệt, thế nên rất nhiều người cảm thấy bức bối...
(Xem: 3963)
Theo Kim Cang Thừa, con đường nhanh chóng để tỉnh thức là nhìn thẳng vào tâm của chính bạn và nhận ra bản tánh thật của tâm.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant