Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Cuộc Cách Mạng Của Người Xuất Sĩ Trên Con Đường Sinh Tử

30 Tháng Tám 201915:47(Xem: 5230)
Cuộc Cách Mạng Của Người Xuất Sĩ Trên Con Đường Sinh Tử
Cuộc Cách Mạng Của Người Xuất Sĩ Trên Con Đường Sinh Tử 

Thích Tâm An


khat thuc

Cách Mạng chính là sự xóa bỏ đi cái cũ đã lạc hậu cũ kỹ và thay thế bởi một cái mới hơn, phát triển hơn và để cho hợp với thời đại hơn. Lịch sử đã đi qua với bao thăng trầm theo đó cũng là bao nhiêu những cuộc cách mạng không chỉ về hình thái chính trị-xã hội mà nó còn có mặt và diễn ra trên các lĩnh vực kinh tế-văn hóa của đời sống của loài người. Những cuộc cách mạng luôn được nuôi dưỡng, bộc phát rồi chúng diễn ra và đi đến kết quả trong mọi thời đại, mọi tầng lớp bởi hai hiện thực của sự khách quan và chủ quan mà làm nên được điều đó. Khách quan chính là mọi vấn đề trong thời điểm đó đang diễn ra gay gắt đòi hỏi cần có một sự phát triển để thay thế cái cũ đã lỗi thời hay không còn phù hợp. Chủ quan kia, đó chính là sự phát triển về nhận thức của con người ở trong thời điểm này để đi đến việc thực hiện một cuộc cách mạng mà chưa cần bàn tới “cách mạng về cái gì, hay điều gì đó”.

Có rất nhiều những cuộc cách mạng của chính trị, công nghiệp, nông nghiệp, văn hóa… đã diễn ra trong dòng lịch sử. Phật giáo với những người xuất sĩ trong đây cũng không đặt bản thân mình ra khỏi cuộc cách mạng ấy. Nhưng có những điểm nổi bật và riêng biệt rằng, cuộc cách mạng của những người xuất sĩ ấy đều giống nhau trong mục đích, giống nhau trong tiến trình cách mạng, đều diễn ra không bao giờ có được hồi kết chung cho toàn bộ người xuất sĩ mà chỉ có được sự thành công đối với những cá nhân người xuất sĩ nhỏ lẻ. Mỗi ai khi bắt đầu đưa thân mình vào hình tướng khác xa thế tục bước đi trên con đường xuất sĩ là đều sẽ bắt đầu cuộc cách mạng cho chính mình. Một cuộc cách mạng của mọi tầng lớp xuất sĩ, mọi đứa con thơ của Bụt đều phải làm điều ấy.

Cuộc cách mạng này của người xuất sĩ đầy gian chuân, giống như người đi ngược chiều trong cơn bão tố, giống như người lái đò chèo ngược dòng chảy đang đầy dữ dội kia để tới đích cần phải đến. Mỗi người tham gia trong cuộc cách mạng này rất cần có trong mình một ý chí, một lập trường tư tưởng và một sự tinh tấn thật mãnh liệt không ngừng nghĩ mới có thể đi đặng. Trong đây, người xuất sĩ tiến hành cách mạng trên hai lĩnh vực chính là cách mạng về thân và cách mạng về tâm nhưng có cùng chung một đích đến là xây dựng một cuộc sống đầy an lạchạnh phúc. Cuộc cách mạng này với sự thật khách quan về kiếp nhân sinh đầy khổ đau luôn tiếp biến hoạt diệt trong dòng sinh tửthúc đẩy, liền đặt ra sự cấp thiết là mong muốn khỏi cái khổ đau ấy mà thay thế bằng niềm vui và hạnh phúc. Với sự thật chủ quan dẫn đến cuộc cách mạng ấy thì đó là tự nơi mỗi người xuất sĩ, họ đặt ra cho mình vấn đề cấp thiếtđi vào nhận thức rằng: muốn ra khỏi con đường của khổ đau sinh tử luân hồi, cần thiết hơn cả là đưa mình vào trong đường xuất thế để có thể một cách tốt nhất làm công cuộc cách mạng kia đối với chính mình và làm được cho người để cùng nhau đi đến một trạng thái đầy ai vui, hạnh phúcgiải thoát.

Mỗi cuộc cách mạng đều có những phương hướng, những  đường lối rõ ràngrành mạch chắc chắn để có thể đi đến thắng lợi vẻ vang. Thì ở đây những người xuất sĩ đã luôn có sẵn phương hướng và đường lối ấy cho mình  bởi nó đã được Bụt vạch ra từ trên 2500 năm trước, chỉ cần người xuất sĩ đủ dũng cảm để tiến hành bước đi bắt đầu cho cuộc cách mạng này.

Với thân, đầu tiên đó chính là cách mạng thay đổi từ hình dáng của người thế tục với trang phục đầy phong phú, đầu tóc gọn gàng đẹp đẽ và hợp mốt, trên thân phải có cái mùi thơm đặc trưng đủ để khoe cá tính… Thì người xuất sĩ sẽ phải cạo bỏ đi mái tóc và bộ râu góp phần tô điểm vẻ đẹp của dáng người của mình. Trên thân thì từ bỏ những trang phục có phần quý phái hay lộng lẫy mà khoác lên màu áo nhuộm bạc màu để làm cho mình khác biệt một cách giải thoát trong cuộc thế đầy những khác biệt của sự ganh đua.  Người xuất sĩ chẳng cần một mùi hương của loài hoa, mùi thơm của mảnh gỗ nhỏ hay mùi nước hoa toát ra trên thân thể của mình để làm cho người say đắm mà cũng đã tự có một mùi hương đặc trưng thật độc quyền, đó chính là hương của đức hạnh, hương của giới luật. Mùi hương ấy phát ra khiến cho mọi người đều sinh khởi tâm không dám coi thường, xem nhẹ. Trên bước đầu của cuộc cách mạng này đối với những người đã phát tâm xuất sĩ đều sẽ làm được  những điều đó, từ đây có nền tảng tiến thân mình trên những bước tiếp theo của cuộc cách mạng ngàn đời, muôn thế hệ.

Tiếp trên con đường cách mạng của người xuất sĩ, họ phải tăng tiến thêm với cấp bậc khó hơn đối với đời sống của mình. Họ cần phải từ bỏ sự sát hại thân mạng của đồng loại hay của những chủng loài khác để nuôi sống bản thân mình. Họ cần phải từ bỏ lối sống lấy của người mà không có sự đồng ý của họ để trợ giúp cho cuộc sống của mình thêm đầy đủ. Họ phải đoạn tuyệt trong cuộc sống của mình từ những ý nghĩ của tình ái, sự hoan ca của dục tình với không chỉ tự mình thỏa mãn hay đối với người mà còn đối với cả những loài động vật. Họ chấm dứt sự nói năng thô tháo, những lời nói mang lại những nỗi khổ niềm đau cho mình, cho người và cho vật. Họ tránh xa những thực phẩm trôi nổi trong nền kinh tế gây ảnh hưởng cho sức khỏetinh thần của mình để có được một sức khỏetinh thần thuần khiết không cần dựa vào những thực phẩm không lành mạnh trong xã hội ấy. Bởi trong tất cả những điều này họ nhận thức được khổ đau của chính mình và đối với người khác mà họ không để cho mình đi chệch quá xa với phương châm này của cuộc cách mạng. Bởi họ mong muốn mình cũng như người khác đều ra khỏi những trạng thái của nỗi khổ niềm đau nên đã không làm những điều có hại cho cả mình và người mà rộng hơn là đến mọi loài. Sự ý thức được khổ đau của giết hại, sự khổ đau của trộm cắp, sự khổ đau của tình dục, sự khổ đau của những lời nói không thiện và sự khổ đau của những chất kích thích gây ra nên người xuất sĩ đã không làm những điều đó hay xui khiến người khác làm những điều đó. Ở đây họ đã phát triển tình thương yêu của mình thật rộng lớn đối với tất cả con người hay loài vật và họ vui vẻ cũng như không chấp trước vào những điều tốt đẹp mình đã làm. Đến đây thì người xuất sĩ đã bước thêm được một bước nữa trên con đường cách mạng của mình đầy thành công buổi đầu, với sự phòng hộ bởi tường rào cao ngất ngưởng và kiên cố. Hàng rào này được gọi là Giới Luật trong cuộc cách mạng này. Thế nhưng những người tham gia cuộc cách mạng này từ trước đến đây cũng đã hy sinh vài đồng chí xuất sĩ đáng yêu bởi họ thiếu sự kham nhẫn, thiếu sự tinh tấn và chưa có được một cái nhìn hiểu thấu bằng trí tuệ.

Để thúc đẩy cho cuộc cách mạng này thành công, bước tiếp theo người xuất sĩ tiến thân mình trên những bước tiếp thật dũng mãnh. Họ phải giành nhiều khoảng thời gian của cuộc đời ban tặng cho mình để làm lắng dịu thân tâm trong những thời khóa tu tập hành trì, những sinh hoạt nghiêm khắc đúng thời giờ để rèn luyện thân thểrèn luyện tâm thức. Chuẩn bị tư trang đi vào bước đường đầy gian khó hơn của cuộc cách mạng mà mình đã chọn. Đó chính là hành trang cho bước đường cách mạng về Tâm của chính người xuất sĩ. Với những hành tướng bên ngoài thông qua sáu cánh cửa tiếp xúc là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý ngay lập tức bọn giặc mang tên phiền não xâm nhậpphát khởi trong tâm của người xuất sĩ. Nó với nhiều loại binh tướng như loại có tên hình sắc, loại có tên âm thanh, loại có tên mùi hương, loại có tên vị nếm, loại có tên cảm xúc và loại có tên ý tưởng. Chúng với những vũ khí thật tối tân, mạnh mẽ như tham lam, sân giận, si mê, tà kiến, vọng tưởngái dục, não hại, ác ý, thù nghịch… chúng luôn tiêm nhiễm vào tâm thức chúng ta những nỗi khổ niềm đau rồi từ đó phát sinh ra bản thân bởi những ngôn từ và hành động đầy vị đắng. Vì thế mà người xuất sĩ phải dùng đến một loại vũ khí đa dụng có sức đả thương mãnh liệt khiến cho quân địch kia khiếp sợ mà dần tan tác tả tơi. Vũ khí ấy đó chính là Chánh Niệm, tức là sự định tĩnh –thiền định của thân và tâm thức. Chánh niệm, là vũ khí tốt nhất của người xuất sĩ với công dụng để đánh trả lại được đối với tất cả những loại giặc. Bằng công dụng của nó, chánh niệm đã phát huy khả năng chiến đấu của mình trên chiến trường của  thân, trên chiến trường của tâm, trên chiến trường có tên cảm thọ và với những đối tượng bên ngoài sinh ra giặc phiền  não ấy.

Chánh niệm trên chiến trường thân, bằng những đường dây kết nối chỉ dẫn tân tiến, người xuất sĩ thấy rõ được hình tướng của mình, rằng nó đang thể hiện ra bên ngoài một cách thô tháo khiến kẻ địch nhận thấy mình hay uyển chuyển nhẹ nhàng làm mất đi tầm ngắm của bọn địch phiền não kia với chính ta. Điều này chính là sự quan sát, nhìn nhận đầy đúng đắn hay còn gọi là Chánh Kiến. Bằng cái máy khuyếch đại âm thanh người xuất sĩ lắng nghe được nhịp đập của con tim mình và nghe được cả những bước dịch chuyển vào ra của hơi thở để từ đó người xuất sĩ cảm nhận rõ ràng được nó và hiểu sâu về nó, đó chính là sự nhớ nghĩ thật chuyên chú và nó được gọi là Chánh Niệm của chánh niệm. Nhận diện được hơi thở, hiểu sâu và chuyển hóa nó là người xuất sĩ ấy đã hiểu được phần nào chính bản thân của mình nhờ vào sự lắng nghe và cảm nhận. Khi ấy người xuất sĩ mới có thể kết hợp được một cách hài hòa uyển chuyển mọi bộ phận của mình và của vũ khí khi tham gia chiến đấu và thậm chí là từng thớ thịt, dây thần kinh trong việc chiến đấu. Những điều này được người xuất sĩ phối hợp nhịp nhàng giữa thân thể, lời nóiý nghĩ. Chúng được coi là sự tư duy nhận định đúng đắn, những lời nói đúng đắn và những hành động đầy lợi ích. Trên đường cách mạng của mình những người xuất sĩ gọi đó là Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Ngiệp. Đồng thời với bộ phận nhìn xuyên thấu, người xuất sĩ thấy rõ được từng bộ phận trên thân thể của mình có bao nhiêu thứ, chúng hoạt động và luôn thay đổi ra sao, từ đây người xuất sĩ cũng có được cái nhìn toàn diện trân thân thể của kẻ địch để nắm bắt được đường đi nước bước mà tìm ra những điểm yếu của chúng, đó là sự nhìn nhận và phát triển thân thể một cách đúng đắn mà danh từ chuyên môn trong cuộc cách mạng này đã dùng với cái tên là Chánh Mạng. Người xuất sĩ oai nghiêm dương cao nòng súng chắc chắn để ngắm nhìn kẻ địch bằng sự vững chãi không lay chuyển , lên nòng và rồi sẵn sàng “bắn”. Sự chắc chắn ngắm nhìn để chờ thời cơ ấy là sự cố gắng-là Chánh Tinh Tấn được người xuất sĩ sử dụng và sự vững chãi ấy chính là thiền định tức là Chánh Định, sự định thân và tâm thật thảnh thơi mà ngóng chờ kẻ địch. Và rồi viên đạn bắn ra kia chính là trí tuệ, là sự hiểu biết chắc chắn không còn nghi ngờ gì về đường đi nước bước của kẻ địch để mà bắn trúng và đầu não của nó. Trí Tuệ ấy chính là Chánh Trí, điều kiện cần thiết để cuộc cách mạng của người xuất sĩ đi đến được thành công vang dội với những thắng lợi thật vẻ vang trong dũng mãnh.

Năm điều đầu tiên mà người xuất sĩ sử dụng được thành công tức là đã bảo vệ được hàng rào chính yếu có tên Giới Luật. Điều này đã làm tăng trưởng lòng Từ Bi, khoan dung, Hỷ Xả của chính người xuất sĩ với mình và với chính kẻ địch hung hãn. Đối với bước tiếp theo của cuộc chiến cách mạng, người xuất sĩ tiến hành vững chãi trên Tám bước quan trọng bằng Trí tuệ sáng suốt để kiên cường chiến đấu chống bọn giặc phiền não với lòng Dũng cảm đầy hào khí mạnh mẽ như muốn đánh tan giông ba bão táp của vũ trụ. Điều này tóm gọn lại được gọi là “Bi-Trí-Dũng” mà đức Bụt đã vạch ra thành kế sách chiến đấu toàn vẹn giống như chiếc lưới thả vào trong nước có thể bao trùm tất cả những thứ gì đang có trong dòng nước lúc ấy.

Đến lúc này thì người xuất sĩ mới chỉ thắng và giành được một vài những đồn, trạm của kẻ địch. Nhưng với trí tuệ của mình, người xuất sĩ đã không cho phép mình quá đắm chìm vào cảm giác vui sướng khi chiến thắng, hay đau khổ khi bị chút thương tích trên người hoặc có chút sợ hãi đối với kẻ địch phía sau. Người xuất sĩ làm chủ những cảm xúc của mình để không dừng lại ở đây, những chiến binh xuất sĩ tiếp tục đi và dùng một vài chiêu đã có sẵn trong kế sách ấy để chống lại sự phản kháng của bọn giặc tham lam, sân hận, giận giữ, não hại, vọng tưởng, tà kiến…còn sót lại. Người xuất sĩ trên đường chiến đấu thực hiện lý tưởng cách mạng đã mang đầy thương tích bởi thân thể này hợp bởi những thứ không vững chãi (vô thường của 5 uẩn) hễ động dao là thịt rách, bị đạn thì lòi gân lộ thịt… và rồi những sự uể oải mệt mỏi (hôn trầm-thùy miên), hay tâm dao động tán loạn (trạo cử) trước những khó khăn thử thách làm cho họ phát điên (sân) vì kẻ địch và về những thiếu thốn của mình, khiến cho họ hiếu chiến-háo thắng (tham) và thậm chí tranh giành lẫn nhau cả về chiến công lẫn những phương tiện hỗ trợ, rồi tự họ khiến mình nảy sinh những nghi ngờ (nghi) về con đường cách mạng mà mình đang đi, những phương pháp mà mình đang sử dụng. Thế nhưng với lòng tin (tín), ý chí, nghị lực, sự mong muốn an lạc (nguyện) khi đánh tan bọn giặc kia và nhớ lại mục đích (hạnh) của mình khi bước chân lên đường cách mạng. Người xuất sĩ làm cho trí tuệ của mình được sử dụng hết công năng và rồi họ tiếp tục tiến bước trên con đường cách mạng đầy gian khó. Và sự thật rằng, khi đi đến đây lại có thêm rất nhiều những chiến binh xuất sĩ bị đánh gục bởi những trở ngại ấy, làm cho họ chùn chân, rời gót khỏi đường cách mạng bởi vì họ đắm chìm vào sự yếu đuối của mình, họ đã làm cho chính mình không còn mấy đáng yêu nữa.

Những người xuất sĩ còn lại, họ tiếp tục bước trong cuộc cách mạng mà mình đã trọn bằng cả tấm chân tình trong trí tuệ chiến đấu và sự kiên cường định tâm thật bất khuất. Họ dần dần hoàn thiện toàn bộ kế sách, chiến lược mà đức Bụt đã vạch ra, ở đó họ cũng thêm thắt hay lược bớt đi một vài những chi tiết nho nhỏ để cho phù hợp với hoàn cảnh đang diễn ra của thời đại. Họ chăm chú nỗ lực hết mình, họ hướng thêm được nhiều người thay thế vào chỗ của những người xuất sĩ đã bỏ được. Và họ cùng nhau lên đường, cùng trao đổi, cùng truyền dạy cho nhau, cùng rút kinh nghiệm cho nhau và cùng nhau chiến đấu cho đến khi thế hệ trước giành được thắng lợi vẻ vang, thực hiện được cuộc cải cách nhỏ lẻ trên chính mình. Những người ấy đã đạt được kết quả của cuộc cách mạng trên đường sinh tử mà họ đã chọn làm. Họ được an lạc, hạnh phúc, thoát khỏi sự nô lệáp bức của bọ giặc gian sảo kia và rồi họ đi tiếp trong cuộc đời bằng con đường trao truyền tư tưởngphương pháp, đường lối của cuộc cách mạng ấy. Để cho những người đi sau nếu có trọn bước đi trên con đường cách mạng này đều có được phương hướng chiến đấu, cải cách thật phù hợp để rồi họ tiến hành cách mạng trong cuộc sinh tử thật thành công và rồi họ lại trở thành những người đi trước với bao chiến công lừng lẫy vang dội khắp đất trời.

Thích Tâm An
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2486)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2301)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2617)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2398)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3203)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2269)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2359)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2489)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2438)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2496)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2152)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2520)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3005)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2611)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2651)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 2928)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2507)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2545)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4002)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2751)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3002)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3272)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2262)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2478)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2761)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 2954)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2832)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2586)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2593)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3156)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2565)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2245)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2353)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2456)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2561)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2648)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2693)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3218)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2525)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2105)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2559)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2022)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2782)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2863)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2890)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2682)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
(Xem: 2466)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2748)
Đời sống của con người thọ mạng nhiều lắm chỉ trên dưới trăm năm. Trong chuỗi thời gian này con người hưởng hạnh phúc không bao nhiêu,
(Xem: 2326)
Đạo đứccăn bản làm người. Một khi có đạo đức rồi, chúng ta mới có thể đứng vững được.
(Xem: 3253)
Đạo Phật thường có câu: "Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm" (khởi tâm niệm mà chẳng trụ trước vào bất kỳ quan niệm, tình cảm hay hình tướng gì cả).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant